ÐỨC PHẬT VÀ GIÁO PHÁP CỦA NGÀI | Phần 1: Đức Phật
- ÐỨC PHẬT VÀ GIÁO PHÁP CỦA NGÀI
- Ernest K. S. Hunt, 1962
- Tịnh Minh dịch Việt, 1992
I- THE BUDDHA
-ooOoo-
Lesson 1
Need of
Religion
A bird, if it is to fly, needs two wings. If
it possesses but one wing it must remain on the ground and can never experience the joy
and happiness of soaring high among the clouds. We also need two wings if we would rise
above the ordinary everyday things of life and become great and noble men and women.
The two wings we need may be called the wings
of education. One wing being secular education, that is the education which we receive in
the public and high school, college and university; the second, religious education, given
generally by means of Sunday schools. Without these two wings we can not hope to soar high
into the realms of knowledge, but must instead remain like the bird on the ground of life,
having little or no spiritual training.
Religious education is just as necessary for
us as learning to read and write. It teaches us how to think and act in order to be good
and happy men and women. It helps us to understand the meaning of life and to adjust
ourselves to its laws.
Religion does not consist, as so many young
people seem to think, in church attendance alone; a person need not pull a long face in
order to be religious. True religion means living the very best and highest lives, getting
the most out of life, which makes a person lighthearted and joyous all the time. This is
the sort of religion which the Buddha taught. It is true that we must attend classes for a
short time each week in order to study its teachings, but the principal thing is to live
them in our daily lives.
Buddha teaches all his followers to make the
best use of life, and gives us the promise that his pathway leads to true happiness in
this world and hereafter.
-ooOoo-
|
I- ÐỨC PHẬT
-ooOoo-
Bài 1:
NHU CẦU
TÔN GIÁO
Một con chim, nếu nó bay được, cần
có hai cánh. Nếu chỉ có một cánh thì nó phải ở trên mặt đất và
không bao giờ có thể hưởng được nguồn an vui hạnh phúc bay liệng giữa
các từng mây. Chúng ta cũng cần có hai cánh nếu chúng ta muốn vượt lên
trên những thứ tầm thường hằng ngày của cuộc đời và trở thành những
con người cao quí, vĩ đại.
Hai cánh chúng ta cần có thể gọi là
hai cánh giáo dục. Cánh thứ nhứt là nền giáo dục thế tục, tức là nền
giáo dục chúng ta tiếp thu ở công chúng, ở trung học, cao đẳng và đại
học; cánh thứ hai là nền giáo dục tôn giáo, thường được trao truyền
qua các lớp học ngày chủ nhật. Không có hai cánh này chúng ta không thể
hy vọng vươn cao lên các lãnh vực tri kiến mà phải ì ạch như con chim trên
mãnh đất trần thế, được rèn luyện chút ít hay không được gì cả về
phương diện tinh thần.
Giáo dục tôn giáo cũng cần thiết
cho chúng ta như học đọc và học viết. Nó dạy chúng ta cách suy nghĩ và
hành động để trở thành những con người lương thiện và hạnh phúc.
Nó giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa cuộc đời và tự điều chỉnh cho phù hợp
với qui luật của nó.
Tôn giáo không chỉ hạn chế trong việc
dự lễ nhà thờ như đa số thanh niên lầm tưởng; không cần phải có bộ
mặt nghiêm nghị mới là người có đạo. Tôn giáo chân chính là nếp sống
tốt đẹp và cao thượng nhất, đạt được cái thâm diệu nhất từ cuộc
đời, làm cho tâm hồn người ta lúc nào cũng tươi vui, thanh thản. Ðó là
loại tôn giáo mà Ðức Phật đã thuyết giảng. Thực sự thì chúng ta phải
tham dự các lớp học ngắn hạn mỗi tuần để nghiên cứu giáo pháp, nhưng
điều chính yếu là phải áp dụng giáo pháp đó vào cuộc sống hằng
ngày của mình.
Ðức Phật giáo dục tất cả môn đệ
của Ngài biết cách sử dụng cuộc đời tốt đẹp nhất, và hứa với
chúng ta rằng con đường Ngài đi sẽ dẫn đến hạnh phúc thật sự ở đời
này và đời sau.
-ooOoo-
|
Lesson 1:
attend (v) : tham dự
attendance (n) : sự tham dự by means of : nhờ sự trợ giúp consist (v) : gồm có education (n) : sự giáo dục follower (n) : đồ chúng, môn đệ ground (n) : mặt đất hereafter (n) : kiếp sau in order to : để knowledge (n) : kiến thức, tri kiến lead (v) : dẫn đến lighthearted (a) : thanh thản, thư thái make the best use of : tận dụng |
possess (v) : có
principal (a) : chính, chủ yếu promise (n, v) : sự hứa hẹn, hứa hẹn to pull (a) long face : làm ra vẻ nghiêm nghị, thảm thiết realm (n) : lãnh vực, địa hạt religion (n) : tôn giáo religious (a) : về tôn giáo secular (a) : thế tục soar (v) : bay vút lên cao sort (n) : loại spiritual (a) : thuộc tinh thần wing (n) : cánh (chim) |
Lesson 2
Who was the
Buddha.
Who was the Buddha? By first hearing a little
about his life we shall get to know him better, then we shall enjoy listening to what he
has to tell us.
There are many legends told about the
Buddha's birth, but I feel sure that you would rather hear the truth, for you are really
too old to be very interested in fairy tales. Legends have always been made up about great
people in history, and although many of these legends are very beautiful, I think, in a
way they are dangerous, for often ignorant people forget that they are nothing but fairy
tales and begin to teach as the truth.
The Buddha was so great that he has no need
of legends to make him appear greater; he was the wisest teacher the world has ever seen,
and his teachings given to men about 2,500 years ago are still helpful for us today. He
did not claim to be a God, nor was he any divine messenger, he clearly tells us that what
he did we can do also if we will listen carefully to his teaching and walk in the pathway
he found for us.
His message is for every race of people, and
many westerners have found, at his feet, peace and happiness. Many of our brothers and
sisters in Europe and America are taking their refuge in the great Teacher who has guided
the East for so many centuries.
-ooOoo-
|
Bài 2:
ÐỨC PHẬT
LÀ AI
Ðức Phật là ai? Nếu trước tiên biết
được đôi chút về cuộc đời của Ngài, chúng ta sẽ hiểu Ngài rõ hơn,
và rồi sẽ thích nghe những điều Ngài thuyết giảng.
Có nhiều truyền thuyết về việc đản
sanh của Ðức Phật, nhưng tôi tin chắc rằng các bạn thích nghe sự thật
hơn, vì rằng các bạn thật sự đã trưởng thành, không mấy quan tâm đến
những chuyện thần tiên nữa. Truyền thuyết lúc nào cũng được tô điểm
cho những con người lịch sử vĩ đại, và mặc dù có nhiều truyền thuyết
rất đẹp nhưng tôi nghĩ, ở một khía cạnh nào đó, chúng nguy hiểm, bởi
vì hạng người kém cõi thường quên rằng truyền thuyết chỉ là chuyện
thần tiên và họ lại giảng dạy chúng như có thật.
Ðức Phật vĩ đại đến nỗi không
cần phải có truyền thuyết để tô điểm cho Ngài ra vẻ vĩ đại hơn. Ngài
là đấng Ðạo Sư thông thái nhất mà thế giới đã từng thấy, giáo
pháp của Ngài đã được truyền bá cho nhân loại cách đây khoảng 2.500 năm
nhưng ngày nay vẫn còn hữu ích cho chúng ta. Ngài không tự cho mình là Thượng
Ðế, Ngài cũng không phải là một sứ giả siêu phàm, Ngài xác minh với
chúng ta rằng những gì Ngài làm, chúng ta cũng có thể làm nếu chúng ta cẩn
thận lắng nghe giáo pháp của Ngài và đi theo con đường mà Ngài đã khai
mở cho chúng ta.
Bức thông điệp của Ngài dành cho mọi
chủng tộc, và nhiều người tây phương đã tìm được nguồn an vui hạnh
phúc dưới chân Ngài. Nhiều anh chị em chúng ta ở Châu AÂu, Châu Mỹ cũng
đang nương tựa bậc Ðại Sư, Người đã hướng dẫn Ðông Phương qua bao
thế kỷ.
-ooOoo-
|
Lesson 2 :
appear (v) : xuất hiện, có vẻ
be interested in : quan tâm đến century (n) : thế kỷ claim (v) : cho là, xác nhận dangerous (a) : nguy hiểm divine (a) : thần thánh, thiêng liêng fairy (a) : về thần tiên guide (v) : hướng dẫn ignorant (a) : ngu dốt, vô minh legend (n) : truyền thuyết |
message (n) : thông điệp
messenger (n) : sứ giả pathway (n) : đường mòn race (n) : chủng tộc, cuộc đua refuge (n) : nơi nương tựa take refuge in : nương tựa vào tale (n) : truyện too... to : quá... không thể westerner (n) : người tây phương wise (a) : khôn ngoan, thông thái |
Lesson 3
The Birth of
the Buddha.
About 2,500 years ago, in the city of
Kapilavatthu, in India, lived a wise and powerful king called Suddhodana. He was much
loved and respected by his people because of his kindness and justice. His wife, Queen
Maya, was a very beautiful woman, and what was better still, was good and pure.
So far these good people were childless and
they only needed a son to complete their perfect happiness.
One day the Queen realized that this greatest
wish of theirs would be fulfilled and that in a short time she would become a mother. She
told the king the glad tidings and asked to be allowed to return to her parent's home that
the child might be born there. Gladly the king granted her request and ordered a number of
workmen to prepare the roads, making them smooth and even so that the queen might travel
with as little fatigue as possible.
The day arrived when the queen set out for
her parents' home, the way lay through a wonderful garden called Lumbini, and it was
springtime, the flowers and bushes were a mass of lovely blossoms, while birds of every
color flitted in and out of the trees and sang in the branches.
Queen Maya, being tired, desired to rest
awhile in Lumbini, and there it was that the pains of childbirth came upon her and her
little son was born, who afterwards became the Buddha. What better spot could have been
chosen for the birth of that great teacher, who so loved all living things? There amid the
fragrant blossoms, the gay, happy birds, seemed to sing songs of welcome, the baby prince
opened his beautiful eyes. When the servants learned that the child was a boy they
hastened back to the palace to carry the welcome news to the king.
QUESTIONS (1)
1- What does a bird need in order to fly?
2- What are the two wings which we need called? 3- What does religious education help us to do? 4- Is it wrong to be happy? 5- What does true religion mean? 6- Has Buddha anything to teach the boys and girls living in America today? 7- Why are legends dangerous in religious teaching? 8- Was the Buddha a god? 9- Is his teaching for Eastern people alone? 10- Where was he born? 11- What was his father's name? 12- His mother's name? 13- Tell the story of his birth.
-ooOoo-
|
Bài 3:
ÐỨC PHẬT
RA ÐỜI
Cách đây khoảng 2.500 năm, tại thành
Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu) ở Ấn Ðộ, có một quốc vương sáng suốt, uy dũng
gọi là Tịnh-Phạn (Suddhodana). Ngài được nhân dân rất mực yêu quí,
kính trọng vì tính nhân ái, công bình của ngài. Vợ ngài, hoàng hậu Ma-da
(Maya) là một phụ nữ rất đẹp, và đẹp hơn nữa là tính tình hiền hậu,
trong sạch của bà.
Hai vị nhân đức này đến giờ vẫn
chưa có con, và họ chỉ cần một đứa con trai để hoàn thiện niềm hạnh
phúc tuyệt vời của họ.
Một hôm, hoàng hậu thấy ước nguyện
cao quí nhất của họ sắp được thành tựu, và chỉ trong một thời gian
ngắn nữa thôi, bà sẽ trở thành một người mẹ. Bà cho quốc vương biết
tin mừng và xin được phép về nhà cha mẹ để sinh nở. Quốc vương hoan
hỷ chấp thuận lời yêu cầu của bà. Ngài lệnh cho một số công nhân sửa
sang đường sá, làm chúng bằng phẳng để hoàng hậu có thể thoải mái
đi qua.
Ngày về nhà cha mẹ đã đến, hoàng
hậu lên đường qua một khu vườn tuyệt vời gọi là Lâm-tỳ-ni (Lumbini).
Nhằm mùa xuân sang, hoa lá cây kiểng bừng rộ sắc hương, chim chóc đủ màu
bay liệng trên cành, hót ca ríu rít.
Cảm thấy hơi mệt, hoàng hậu Ma-da
muốn dừng nghỉ chốc lát trong vườn Lâm-tỳ-ni, rồi bà chuyển dạ và hạ
sanh được một hài nhi, người mà sau này thành Phật. Còn nơi nào đẹp
hơn cho bậc đại sư yêu thương tất cả chúng sanh ra đời? Giữa cảnh
hương hoa ngào ngạt, chim chóc nhởn nhơ, hót ca vang vọng những khúc nhạc
đón mừng thì hoàng tử tí hon mở to đôi mắt tuyệt vời. Ðược biết hài
nhi là một hoàng nam, các thị nữ hối hả trở về hoàng cung, mang tin mừng
cho quốc vương Tịnh-Phạn.
CÂU HỎI (I)
1. Con chim cần gì để bay?
2. Hai cánh mà chúng ta cần được gọi là gì? 3. Giáo dục tôn giáo giúp ta làm gì? 4. Có phải được hạnh phúc là sai lầm không? 5. Thế nào là tôn giáo chân chính? 6. Ðức Phật có gì để dạy cho các em nam nữ sống ở Mỹ ngày nay không? 7. Tại sao truyền thuyết thì nguy hiểm trong giáo pháp? 8. Ðức Phật có phải là một thần linh không? 9. Có phải giáo pháp của Ngài chỉ dành cho người Phương Ðông không? 10. Ngài được hạ sanh ở đâu? 11. Tên của phụ thân ngài là gì? 12. Tên của mẫu thân ngài là gì? 13. Hãy kể chuyện đản sanh của ngài?
-ooOoo-
|
Lesson 3 :
allow (v) : cho phép
amid (prep) : ở giữa be (a) mass of : có nhiều blossom (n) : hoa bush (n) : bụi cây childless (a) : không có con complete (v) : hoàn tất desire (v) : muốn even (a) : bằng phẳng fatigue (n) : sự mệt mỏi flit (v) : bay vụt qua fragrant (a) : thơm ngát fulfil (v) : thực hiện, hoàn thành glad (a) : vui mừng grant (v) : chấp nhận hasten (v) : vội vã justice (n) : sự công bằng kapilavatthu : Ca-tỳ-la-vệ kindness (n) : sự tử tế, sự từ ái |
Lumbini : Lâm-tỳ-ni
order (v) : ra lệnh pains of childbirth: palace (n) : cung điện powerful (a) : uy quyền, hùng mạnh prince : hoàng tử pure (a) : trong trắng, tinh khiết realize (v) : nhận thức request (n) : lời thỉnh cầu respect (n, v) : sự tôn kính, tôn kính servant (n) : thị nữ set out (v) : khởi sự, bắt đầu smooth (a) : nhẵn, trơn so far : cho đến bây giờ springtime (n) : mùa xuân Suddhodana : Tịnh phạn tidings (n) : tin tức wish (n) : ước nguyện |
Lesson 4
Asita's
Prophecy
The Prince was taken to the palace where King
Suddhodana prepared to celebrate the feast of naming the child. In those days learned men
studied a good deal about the stars, for it was believed that these stars had a great
influence on men's lives. Whenever a child was born a wise man was called in to foretell
the child's future by the position of the stars at the time of his birth.
King Suddhodana, according to this custom,
sent for the wisest man in India at that time, a hermit named Asita, who dwelt among the
mountains. Asita, when he saw the child, knew that he was destined to become very great,
and told the king that two pathways opened before the feet of the prince, he would either
become a mighty king, and rule alone and wisely, or else he would leave his palace and
become the Supreme Buddha, teacher of men. The wise man chose for the child the name of
Siddhartha.
The king was much worried over Asita's
prophecy, for he greatly desired that his son should reign over the kingdom after he was
gone and become a mighty monarch, but did not like the thought that he might choose
instead the other pathway and become the great world teacher. So, in order that his son
should not think too much or become serious minded, he surrounded him with every pleasure
and amusement, choosing for him only young and happy playmates and keeping carefully away
from him all knowledge of sadness and death.
The prince grew up to be a very lovely
character in spite of the fact that he was always given his own way about things; it
seemed as if it was impossible to spoil him. He was kind, truthful, gentle and pure, and
yet at the same time he took a keen interest in all kinds of sports and races, and was
very skillful at all of them. He was in every way a normal, healthy boy.
-ooOoo-
|
Bài 4
LỜI TIÊN
TRI CỦA A-TƯ-ÐÀ
Hoàng tử được đưa đến hoàng
cung, nơi quốc vương Tịnh-Phạn chuẩn bị làm lễ đặt tên cho cậu. Vào
những ngày đó, các nhà thông thái nghiên cứu nhiều về các vì sao, vì người
ta tin rằng các vì sao đó có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của
nhân loại. Khi một em bé ra đời thì một hiền sĩ được mời đến để
tiên đoán tương lai của em bé qua vị trí của những vì sao ngay lúc em mới
sinh ra.
Quốc vương Tịnh-Phạn, theo tập tục,
cũng cho mời vị thông thái nhất ở Ấn Ðộ lúc bấy giờ, một ẩn sĩ tên
là A-tư-đà (Asita), người đã an trú giữa núi rừng. Khi thấy hài nhi, A-tư-đà
biết ngay cậu ấy nhứt định sẽ trở nên rất vĩ đại. Ông nói với quốc
vương rằng hai con đường sẽ mở ra trước đôi chân của hoàng tử: hoặc
là cậu sẽ trở thành một quốc vương uy dũng, sáng suốt và đơn phương
trị vì thiên hạ, hoặc là cậu sẽ từ giã hoàng cung, thành Phật tối thượng,
bậc đạo sư của nhân thế. Nhà hiền sĩ chọn cho cậu cái tên là Tất-đạt-đa
(Siddhartha).
Quốc vương rất lo lắng về lời tiên
tri của A-tư-đà, vì ngài rất muốn con trai của ngài phải ngự trị vương
quốc sau khi ngài qua đời và trở thành một vì vua uy dũng, chứ không
thích cái ý nghĩ rằng hoàng tử có thể chọn con đường khác và trở
thành bậc đạo sư vĩ đại trên đời. Vì vậy, để con mình khỏi phải
trầm tư suy nghĩ, thao thức đủ điều, ngài bao vây cậu bằng mọi thú
vui, giải trí, chọn cho cậu toàn những bạn bè vui vẻ, trẻ trung và cẩn
thận giữ cậu xa lánh các ý niệm đau buồn, chết chóc.
Hoàng tử lớn lên với tính nết rất
dễ thương mặc dù cậu luôn luôn được cung phụng đủ thứ theo sở thích,
và điều đó hình như cũng không thể làm cậu hư hỏng. Cậu từ ái,
chân thật, hiền hòa và trong sạch. Cậu cũng rất quan tâm đến các môn
thể thao, đua sức, và môn nào cậu cũng điêu luyện. Cậu là cậu bé rất
bình thường và khỏe mạnh về mọi phương diện.
-ooOoo-
|
Lesson 4:
a good deal : nhiều
according to : theo amusement (n) : sự vui chơi, trò giải trí Asita : A-tư-đà celebrate (v) : làm lễ kỷ niệm character (n) : nhân vật, tính nết custom (n) : phong tục destine (v) : dự định dwell (v) : cư ngụ either... or : hoặc là... hoặc là fact (n) : sự kiện feast (n) : yến tiệc foretell (v) : tiên đoán gentle (a) : hiền hòa grow up (v) : lớn lên healthy (a) : khỏe mạnh hermit (n) : ẩn sĩ in order that : để cho in spite of : mặc dù influence (n) : ảnh hưởng keen (a) : sắc sảo |
keep away from : tránh xa
kind (a) : tử tế, từ ái Kingdom (n) : vương quốc learned (a) : thông thái, uyên bác mighty (a) : dũng mãnh minded (a) : trầm tư monarch (n) : vua, quốc vương normal (a) : bình thường playmate (n) : bạn chơi đồng trang lứa pleasure (n) : lạc thú prophecy (n) : lời tiên tri reign (v) : ngự trị, thống trị rule (v) : cai trị send for someone : cho mời ai đến serious (a) : nghiêm trọng Siddhartha : Tất-đạt-đa skillful (a) : khéo léo spoil (v) : làm hỏng supreme (a) : tối thượng surround (v) : bao quanh truthful (a) : chân thật |
Lesson 5
The Prince
and a Swan.
One day when Siddhartha was playing in the
garden with his cousin, Devadatta, a lovely white swan flew over the tree-tops.
Devadatta,who was a good deal older than the prince and not so kind-hearted, drew his bow
and arrow and shot the beautiful creature in the wing, and it fell to the ground.
Siddhartha rushed forward and picked up the
poor frightened creature and gently withdrew the arrow from its bleeding wing. Books tell
us that this was the first time that the Prince had come face to face with pain and
suffering. Devadatta angrily demanded that Siddhartha give up the bird, claiming ownership
becauce he had shot it. But the Prince refused, saying that it belonged to the person who
saved its life. And he gently stroked the bird and then let it fly away.
This little tale of the boyhood of the Buddha
gives us all a good lesson in kindness to our weaker brothers and sisters, the birds and
animals around. One so often sees boys and girls tormenting some poor dumb creature,
thinking nothing of its terror and pain. All of us who are followers of the gentle Buddha
should set an example in love and kindness to animals and poor helpless creatures who look
to us for care and sympathy.
-ooOoo-
|
Bài 5
HOÀNG TỬ
VÀ CON THIÊN NGA
Một hôm Tất-đạt-đa đang chơi trong
vườn với người em họ là Ðề-bà-đạt-đa (Devadatta) thì có một con
thiên nga dễ thương màu trắng bay ngang qua các ngọn cây. Ðề-bà-đạt-đa,
người lớn tuổi hơn hoàng tử nhiều và không mấy từ ái, giương cung tên
bắn trúng cánh con vật xinh đẹp đó và nó rơi xuống đất.
Tất-đạt-đa vội chạy đến bế con
vật sợ hãi đáng thương lên và nhẹ nhàng rút mũi tên ra khỏi cánh đẫm
máu của nó. Sách vở cho chúng ta thấy đây là lần đầu tiên hoàng tử
giáp mặt với khổ đau. Ðề-bà-đạt-đa tức giận, bắt Tất-đạt-đa trả
lại con chim, đòi quyền sở hữu vì chàng đã bắn trúng nó. Hoàng tử từ
chối, nói rằng nó thuộc quyền người nào cứu mạng nó. Chàng âu yếm
vuốt ve con chim rồi thả nó bay đi.
Câu chuyện nhỏ về thời thơ ấu của
Ðức Phật này đã cho chúng ta một bài học lý thú về lòng nhân từ đối
với anh chị em yếu kém hơn chúng ta, những chim muông và thú vật chung
quanh ta. Ai từng thấy trẻ em hành hạ một số sinh vật câm điếc khốn nạn
mà không nghĩ đến cảnh khiếp sợ, đau khổ của chúng. Tất cả chúng
ta, môn đồ của Ðức Phật hiền từ, phải nêu gương yêu thương nhân
ái với những súc vật và sinh vật bơ vơ khốn khổ đang trông chờ sự
chăm sóc, thương cảm của chúng ta.
-ooOoo-
|
Lesson 5:
arrow (n) : mũi tên
belong to (v) : thuộc về bleed (v) : chảy máu bow (n) : cái cung boyhood (n) : thời niên thiếu care (n) : sự chăm sóc claim (v) : đòi, yêu sách creature (n) : sinh vật demand (v) : yêu cầu, đòi hỏi Devadatta : Ðề-bà-đạt-đa draw (v) : kéo, vẽ dumb (n) : điếc, ngớ ngẩn face to face : mặt đối mặt frightened (a) : hoảng sợ give up (v) : từ bỏ, đầu hàng |
helpless (a) : bơ vơ
kind-hearted (a) : hảo tâm look to someone : trông cậy vào ai ownership (n) : quyền sở hữu pain (n) : sự đau đớn pick up (v) : nhặt lên refuse (v) : từ chối set an example : nêu gương shoot (v) : bắn stroke (v) : vuốt ve suffering (n) : sự đau khổ swan (n) : con thiên nga sympathy (n) : sự thông cảm terror (n) : sự kinh hãi torment (v) : giày vò, hành hạ withdraw (v) : rút ra |
Lesson 6
The Prince
Saw the Facts.
When the Prince reached manhood the King
decided that it was time he married, for he thought that if the prince had home ties, such
as a wife and children, he would not want to leave and become the Buddha, but would
instead become the great king.
In the East, in those days, a prince who
desired to marry must first prove his bravery and strength. The king accordingly, invited
the princes and warriors from many parts of the country to meet the prince in wrestling,
shooting matches, in swimming contests and many other manly sports, and in all of them the
Prince came out victorious.
When the games were over the princesses who
were present walked before the prince, that he might choose from among them a wife suited
to his position. The young maidens walked with downcast faces. They were shy and nervous,
and the prince could scarcely get to see whether they were beautiful or not. At the end of
the procession walked a lovely young girl, and as she passed the prince she gave him such
a roguish smile that at once he fell in love with her and chose her for his bride. Her
name was Yoshodhara, daughter of King Koli. Their wedding was celebrated for one whole
week, with much rejoicing.
After the prince had been married about one
year he asked the king to give him permission to go into the city and see how the people
lived beyond the palace gates. The king was worried and he feared that the prince would
see things which would make him sad, for many people were poor and sickly and he had tried
to keep such things away from his son's eyes. However, he could not refuse and gave orders
that the streets should be decorated and that the people should keep a holiday on that
day, wearing their brightest and best clothes, so that the prince should only see joy and
happiness all around.
Early one morning, three days later the
prince set forth to see the city of Kapilavatthu. Flags were flying from all the houses
and the streets were decorated with garlands of flowers. Everyone seemed bright and happy,
and the people thronged the streets to watch the Prince ride by. They were all dressed in
their best clothes and shouted loving greetings to him from every side.
"What a beautiful place this earth
is," exclaimed the Prince, "everybody is so happy!"
Just as he said this his glance fell upon an
aged man standing at the side of the road. The old man's eyes were sunken and watery, his
limbs were shaking and he could scarcely stand.
"Why is he shaking like that, what makes
him look so strange?" asked Siddhartha.
"That is an old man," answered the
attendant. " All who live long enough become like that." The Prince said
nothing, but his face grew sad and wistful.
They rode on for some time in silence when
suddenly a young man by the side of the road threw up his hand with a loud cry and fell
upon his face on the ground. The people around rushed to his aid and helped to raise him
up.
"Oh! " exclaimed the prince, "
what is the matter with him? "
"He has been taken ill," the people
answered.
On they rode again, returning to the palace
by a new way. Down a sidestreet, came a strange procession men bearing a stretcher and
women walking behind and wailing. " Whatever are they doing? "asked the prince.
"It is a funeral," answered Channa,
the attendant; "the young man upon the stretcher is dead and they are taking his body
to be burned."
The Prince could bear no more and rode
swiftly to the palace. But coming to the gates he stopped, for there by the roadside sat a
monk, barefooted, dressed in a long robe, a begging bowl in his hand.
"Why do you beg for by the
roadside?" asked the prince, " and why do you dress in such a fashion? "
"I have renounced the joys of
earth," answered the monk, " I am seeking for a way of salvation, a way of
escape from the sufferings of life, for peace can only be found by giving up the
world."
When the Prince heard the words of the monk,
he knew in his heart that he too must wander homeless and lonely, until he found the
answer to all pain and sorrow; until he found a way by which these sufferings should cease
for all time.
As he entered the gates of the palace a
servant met him with the glad news that a son had been born to him. This, however, only
made the Prince more unhappy, for he knew that it would be much harder now to leave his
home and loved ones.
-ooOoo-
|
Bài 6:
HOÀNG TỬ
CHỨNG KIẾN CÁC SỰ KIỆN
Khi hoàng tử đến tuổi trưởng thành,
quốc vương quyết định lập gia đình cho chàng vì ngài nghĩ rằng nếu hoàng
tử có những mối ràng buộc gia đình như vợ con thì chàng sẽ không muốn
xuất gia thành Phật mà sẽ trở thành đại vương.
Ở Ðông Phương, vào những ngày đó,
một hoàng tử muốn lấy vợ, trước hết phải chứng tỏ tính can trường
dũng mãnh của mình. Do đó, quốc vương mời tất cả thái tử, võ tướng
từ khắp nơi trong nước đến gặp hoàng tử trong các cuộc đô vật, bắn
cung, bơi lội và các môn thể thao mạnh bạo khác, môn nào hoàng tử cũng
thắng cả.
Khi cuộc so tài kết thúc, các công
chúa hiện diện bước ra trước mặt hoàng tử để chàng chọn người làm
vợ, phù hợp với vị thế của chàng. Các thiếu nữ đều cúi mặt bước
ra. Họ e thẹn và xúc động. Hoàng tử khó có thể xác định vẻ đẹp của
họ. Cuối cuộc trình diễn, một thiếu nữ xinh xắn đi qua trước mặt hoàng
tử và tặng chàng một nụ cười kín đáo đến độ chàng yêu nàng và chọn
nàng làm vợ ngay. Tên nàng là Da-du-đà-la (Yoshodhara), ái nữ của vua Thiện-giác
(Koli). Hôn lễ của họ được tổ chức cả tuần với biết bao hân hoan
vui thú.
Sau khi hoàng tử kết hôn khoảng được
một năm, chàng xin phép quốc vương ra phố xem cảnh sinh hoạt của dân
chúng bên kia cổng tường hoàng cung. Quốc vương lo sợ hoàng tử chứng kiến
bao cảnh thảm sầu, Ngài đã cố gắng che dấu, không để những người
nghèo khổ tật bịnh vất vưởng trước mặt con mình. Tuy nhiên, ngài
không thể từ chối. Ngài ra lệnh đường sá phải được trang hoàng lộng
lẫy, dân chúng phải nghỉ việc và ăn mặc y phục sang trọng rực rỡ nhứt
ngày hôm đó để hoàng tử đâu đâu cũng chỉ thấy cảnh hân hoan, hạnh
phúc.
Ba hôm sau, vào một buổi sớm mai,
hoàng tử lên đường xem thành Ca-tỳ-la-vệ. Cờ phướn tung bay mọi nhà,
đường phố giăng đầy hoa lá, người nào cũng lộ vẻ tươi vui, hạnh phúc,
dân chúng tụ tập trên các phố phường để xem hoàng tử cỡi ngựa đi
qua. Họ mặc quần áo xinh đẹp nhất và cất lời thân thương chào chàng
từ khắp mọi phía.
"Trái đất này là nơi đẹp đẽ
biết bao!" Hoàng tử tán thán: "Ai ai cũng vui vẻ hạnh phúc".
Vừa nói xong là chàng thấy ngay một
cụ già đang đứng bên lề đường. Hai mắt sâu hoắm, chèm nhèm, tay chân
run rẩy, lão khó mà đứng vững được.
"Tại sao người ấy run thế? Sao
trông kỳ cục thế?" Tất-đạt-đa hỏi.
"Ðó là một người già" thị
vệ đáp "Ai sống lâu rồi cũng như thế cả". Hoàng tử không nói
gì nhưng khuôn mặt hiện lên nét đăm chiêu, buồn chán.
Họ tiếp tục im lặng lên ngựa được
một lúc thì bỗng dưng có một thanh niên bên lề đường đành chịu úp mặt
xuống đất khóc than thê thảm. Những người chung quanh vội đến đỡ hắn
đứng lên.
"Ồ", hoàng tử cất tiếng hỏi
"Cậu ấy làm sao thế?"
"Cậu ấy bị bịnh" dân
chúng đáp.
Họ lại tiếp tục lên ngựa trở về
hoàng cung bằng một lộ trình mới. Nhưng bên kia đường lại hiện ra đám
rước kỳ lạ, các ông khiêng một cái cáng, các bà theo sau than khóc.
"Họ đang làm gì thế?" hoàng tử hỏi.
"Ðó là một đám ma" Xa-nặc
(Channa), người thị vệ đáp. "Cậu thanh niên trên chiếc cáng kia chết
rồi, họ đang đem thi thể của hắn đi thiêu đó".
Không chịu được nữa, hoàng tử hối
hả lên ngựa quay về hoàng cung. Nhưng đến cổng thành chàng dừng lại,
chàng bắt gặp một tu sĩ đi chân đất, vận y vàng, tay bê bình bát, ngồi
bên vệ đường.
"Tại sao anh xin ăn bên vệ đường?"
Hoàng tử hỏi "Và tại sao anh mặc đồ như thế?"
"Tôi đã từ bỏ lạc thú trần
gian" vị tu sĩ đáp. "Tôi đang tìm đường giải thoát, con đường
thoát khỏi mọi khổ đau của cuộc đời, bởi vì an lạc chỉ có thể
tìm thấy được bằng cách từ bỏ thế gian".
Khi hoàng tử nghe qua những lời của
vị tăng sĩ, chàng thấy từ thâm tâm rằng mình cũng phải cô thân chích
bóng, không cửa không nhà, nay đây mai đó cho đến khi tìm được lời giải
đáp cho mọi khổ đau, cho đến lúc tìm ra được con đường dứt trừ
đau khổ.
Khi chàng vào cổng hoàng cung, một thị
nữ đón chàng với tin mừng là công chúa đã sanh cho chàng một bé trai.
Tuy nhiên, việc này chỉ làm cho hoàng tử buồn hơn, vì chàng thấy bây giờ
từ giã gia đình và những người thân thương sẽ khó khăn hơn nhiều.
-ooOoo-
|
Lesson 6:
accordingly (adv) : do đó
attendant (n) : thị vệ, thị giả barefooted (a) : chân không be dressed in : mặc đồ be over : kết thúc bear (v) : khiêng, chịu đựng beg (v) : ăn xin, khất thực begging bowl : bình bát bowl (n) : chén, tô, bát bravery (n) : tính can đảm bride (n) : cô dâu bright (a) : tươi vui burn (v) : đốt, thiêu cease (v) : chấm dứt channa : xa-nặc come out (v) : thắng lợi contest (n) : trận đấu, cuộc thi decorate (v) : trang hoàng downcast (a) : cúi xuống, nhìn xuống escape (n,v) : sự trốn thoát, trốn thoát exclaim (v) : kêu lên, la lên fall in love with someone : yêu ai fashion (n) : mốt, thời trang fear (v) : lo sợ flag (n) : cờ funeral (n) : đám tang garland (n) : vòng hoa glance (n, v) : cái liếc, liếc nhìn greeting (n) : lời chào hỏi homeless (a) : không cửa không nhà Koli : Thiện-giác limbs (n) : tứ chi lonely (a) : cô đơn, cô độc maiden (n) : thiếu nữ manhood (n) : tuổi trưởng thành match (n) : cuộc thi đấu |
monk (n) : tu sĩ, tăng sĩ
nervous (a) : hồi hộp, xúc động order (n) : mệnh lệnh permission (n) : sự cho phép position (n) : vị trí princess (n) : công chúa procession (n) : cuộc diễu hành prove (v) : chứng tỏ rejoicing (n) : sự vui mừng renounce (v) : tìm kiếm roadside (n) : lề đường roguish (a) : tinh nghịch salvation (n) : sự giải thoát scarcely (adv) : hầu như không seek for (v) : tìm kiếm set for (v) : lên đường shake (v) : lay động shy (a) : e thẹn strange (a) : kỳ lạ stretcher (n) : cái cáng such that : đến nỗi suit (v) : thích hợp sunken (a) : lõm hóp swiftly (adv) : nhanh chóng throng (v) : tụ tập tie (n) : mối ràng buộc victorious (a) : chiến thắng wail (v) : than khóc wander (v) : đi lang thang, vân du warrior (n) : võ sĩ, võ tướng watery (a) : đẫm nước, chèm nhèm wedding (n) : đám cưới wistful (a) : đăm chiêu wrestle (v) : đánh vật Yoshodhara : Da-du-đà-la |
Lesson 7
The Great
Renunciation.
At midnight, while all in the palace were
sleeping, Siddhartha arose softly so as to awaken no one and crept gently to the room
where his wife, Yoshodhara, lay sleeping with his baby son. Pulling aside the curtains of
the bed, he gazed upon the faces of those two whom he so loved, then quietly left the room
without waking them. Tears fell from his eyes for he knew that many years must pass before
he would see them again.
He passed out of the palace into the
courtyard, where Channa, his faithful servant, awaited him with his horse, Kanthaka,
already saddled. Together they rode out into the sleeping city and along the road leading
towards the forest. After several hours riding they reached the river Anoma, where the
Prince dismounted and cut off his hair with his sword. Then taking off his princely robes
and jewels he handed them to Channa, telling him to return to the palace with his horse
and give them to his father, informing him that his son had made up his mind to seek for
the way of deliverance. Channa turned back, leading the beautiful horse, and the Prince
went alone into the dark forest.
QUESTIONS (2)
1- What did the ancient people believe about
the stars?
2- Whom did the king send for? 3- What did Asita foretell? 4- Was the Prince a manly boy? 5- Tell the story of the swan. 6- What does this story teach us? 7- When a Prince desired to marry what must he first do? 8- Whom did the prince choose for his wife? 9- What request did the prince one day make of his father? 10- Tell the four things which the Prince saw on his journey through the city. 11- What did the Prince do at midnight?
-ooOoo-
|
Bài 7
CUỘC GIÃ
TỪ VĨ ÐẠI
Vào lúc nửa đêm, trong khi mọi người
ở hoàng cung đang ngủ, Tất-đạt-đa nhẹ nhàng trở dậy để khỏi đánh
thức một ai, và rón rén đến phòng vợ mình là Da-du-đà-la đang nằm ngủ
với đứa con trai thơ ấu. Ðưa tay vén tấm màn che giường, chàng chăm chú
nhìn mặt vợ con yêu quí rồi lặng lẽ rời khỏi phòng không một tiếng
động. Mắt chàng rơi lệ, vì biết là phải qua nhiều năm tháng chàng mới
gặp lại họ.
Chàng rời khỏi cung thất, ra đến sân
sau, nơi Xa-nặc, người thị vệ trung thành, đang đợi chàng với con tuấn
mã Kiền-trắc (Kanthaka) đã thắng sẵn yên cương. Họ cùng nhau lên ngựa
ra ngoài kinh thành đang ngủ và chạy dọc theo một con đường nhỏ dẫn đến
cánh rừng. Sau nhiều giờ lặn lội, họ đã tới dòng sông A-nô-ma (Anoma).
Chàng xuống ngựa, đưa gươm cắt tiện mái tóc, đoạn cởi áo hoàng tử
và các thứ châu báu trao cho Xa-nặc, bảo hắn đưa ngựa về hoàng cung và
trao các thứ đó lại cho phụ hoàng, báo cho ngài biết rằng hoàng tử đã
quyết định tìm đường giải thoát. Xa-nặc dẫn con tuấn mã quay về,
hoàng tử một mình đi vào rừng sâu.
CÂU HỎI (2)
1. Người xưa tin thế nào về các vì
sao?
2. Quốc vương cho mời ai đến? 3. A-tư-đà tiên đoán những gì? 4. Hoàng tử đã thành nhân rồi phải không? 5. Hãy kể chuyện con thiên nga. 6. Chuyện này dạy ta những gì? 7. Khi một Hoàng tử muốn kết hôn, chàng phải làm gì trước nhất? 8. Hoàng tử đã chọn ai làm vợ? 9. Một hôm Hoàng tử yêu cầu phụ hoàng những gì? 10. Hãy kể bốn sự kiện mà Hoàng tử đã chứng kiến trong cuộc du ngoạn qua thành phố. 11. Hoàng tử làm gì vào lúc nửa đêm?
-ooOoo-
|
Lesson 7:
arise (v) : trở dậy, nảy sinh
await (v) : chờ đợi awake (v) : đánh thức courtyard (n) : sân nhỏ, sân trong creep (v) : bò, trườn curtain (n) : màn cửa deliverence (n) : sự giải thoát dismount (v) : xuống (ngựa, xe) faithful (a) : trung thành, chung thủy foretell (v) : tiên đoán gaze upon someone (v) : nhìn chăm chăm ai hand (v) : trao tay inform (v) : báo tin, cho biết jewel (v) : ngọc ngà, đồ châu báu |
Kanthaka : Kiền-trắc
make up one's mind : quyết định princely (a) : thuộc hoàng tử, sang trọng renunciation (n) : sự từ bỏ, sự giã từ robe (n) : áo choàng (chỉ chức vị) saddle (v) : thắng yên ngựa servant (n) : người đầy tớ, người giúp việc so as (to) : để làm việc gì softly (adv) : nhẹ nhàng sword (n) : gươm, kiếm take off (v) : cởi ra tear (n) : nước mắt wake (v) : đánh thức, tỉnh dậy |
Lesson 8
The
Wandering Ascetic.
During the long night the Prince journeyed on
through the lonely forest, and at sunrise he came to the city of Rajagriha.
The guards were opening the gates and the
Prince entered them and walked slowly through the streets of the city. The people knew
that he was a stranger and they saw that in some way or other he was different to most of
those who visited the city. His noble bearing, his grave, gentle manner and his kind face
proclaimed him to be a man worthy of trust and respect, a great sage and teacher.
Many followed him, wondering where he was
going and some of the servants of the palace went to King Bimbisara, the monarch of the
Rajagriha, and told him of the stranger. He put on his royal robes and went out to meet
him.
"O noble visitor!" said the king,
" whence have you come and whither are you going, for I can easily see that you are
of royal blood and also a great sage?"
"Sire, I am Siddhartha, son of King
Suddhodana," answered the Prince, "and I have vowed to wander homeless until I
find the way of deliverance from sorrow and misery, not for myself alone but for all
living beings".
"Stay instead with me", begged the
king, "for I have no son and desire an heir with whom to share my kingdom".
"Riches and power I have
renounced", replied the Prince, with a smile; "from the prison of pleasures I
have escaped. Shall the captive bird return of his own free will to the cage from which he
has escaped?"
"Go forth, my lord, and I will not tempt
you away from your noble task! But when you have found the truth, come here once more and
teach it to me", said Bimbisara. The Prince promised and set out once more upon his
journey.
As Siddhartha was wondering which of the many
paths to take he caught sight of two learned Brahmins (Hindu priests) busily reading the
sacred scriptures (Holy Books) and discussing the meaning of what they read.
"These must be very wise men",
thought the Prince. "I will go and talk to them, perhaps they can help me in my
search for the Truth".
So he went over to them and sat for many
weeks listening to what they were saying. But he found that he was no nearer to the goal
he sought, for they spent most of the time in long arguments which only led to anger and
bad feelings.
Finally he left them, and as he was walking
down one of the shady paths he came upon a temple; the door stood open and Siddhartha
entered, hoping that he might learn the truth within.
Many priests robed in long gowns stood before
an alter, on which lay a dying animal, its eyes filled with agony. The hands of the
priests were covered with blood and the floor beneath the altar was stained crimson.
"How can you be so cruel?" cried
the Prince, his tender heart almost broken to see such suffering.
"We are sacrificing to the gods so that
they will forgive the sins of the people", answered the Head Priest, "the gods
can only be pleased by the shedding of blood".
"Gods who are good would not require the
death of innocent animals; I cannot believe such wrong teaching", cried the Prince,
and went quickly out of that dreadful place, for he knew that the Truth could never be
found there.
After many weeks of wandering he came upon
five priests, who lead very strict and holy lives. These men believed that the Truth could
be found by torturing their bodies and by starving and cutting themselves with sharp
knives.
Siddhartha joined them, and starved and
treated his body with such cruelty that he almost died of weakness and pain. Although he
lived there for six years, growing every day weaker, he was no near to the goal he sought,
and at length he decided to leave those priests and look elewhere.
As he was lying in a fainting condition by
the side of the stream, too weak to even lean over and quench his thirst, a young girl
appeared and offered him a drink of milk, which revived him so that he was able to get up
and walk. He bade good-bye to the five men, but they were angry because he was leaving
them and rudely turned their backs. Siddhartha walked sadly away, for he was very fond of
these poor priests and hated to think of them wasting their time in such needless agony.
-ooOoo-
|
Bài 8
THẦY DU SĨ
Hoàng tử đi qua cánh rừng hiu quạnh
suốt đêm cho đến tảng sáng thì chàng tới thành phố Vương xá
(Rajagriha).
Vệ binh mở cổng, hoàng tử bước vào
và từ tốn đi qua các đường phố trong thành. Dân chúng biết chàng là
khách lạ. Họ thấy chàng có đôi nét khác biệt với phần lớn du khách
viếng thành trước kia: phong thái cao sang, tính khí can trường, thái độ hòa
nhã và khuôn mặt hiền từ của chàng đã cho thấy chàng là một hiền giả
cao quí, một đạo sư vĩ đại, đáng được tin yêu kính trọng.
Nhiều người đi theo chàng, thắc mắc
không biết chàng đi đâu, một số quan thần của hoàng triều đến gặp
vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara), quốc vương của thành Vương xá, báo cho ngài
biết về người lạ mặt. Ngài mặc vương phục và ra gặp chàng.
"Thưa du khách cao quí!" quốc
vương nói. "Ngài từ đâu tới? Ngài sẽ đi đâu? Ta có thể dễ dàng
thấy rằng ngài thuộc dòng hoàng tộc, và cũng là một hiền giả vĩ đại".
"Tâu bệ hạ, tôi là Tất-đạt-đa,
con trai của quốc vương Tịnh-Phạn" Hoàng tử đáp, "tôi đã nguyện
ra đi không cửa không nhà cho đến khi tìm ra con đường giải thoát khổ
đau, không những chỉ cho tôi mà cho tất cả chúng sanh nữa".
"Hãy ở lại đây với trẫm",
quốc vương van xin. "Trẫm không có con trai, trẫm muốn có người thừa
kế để truyền lại vương quốc này".
"Tôi đã từ bỏ giàu sang, quyền
lực", Hoàng tử tươi cười đáp; "tôi đã thoát khỏi ngục tù lạc
thú. Con chim đã sổ lồng mà lại tự nguyện trở về lồng nữa
sao?".
"Hãy cứ đi, thưa ngài. Trẫm sẽ
không dám quyến rủ ngài từ bỏ nghĩa vụ cao cả của ngài! Nhưng khi ngài
tìm ra sự thật, xin ngài hoan hỷ trở lại đây truyền dạy cho trẫm",
Tần Bà Sa La nói. Hoàng tử hứa hẹn và tiếp tục lên đường.
Tất-đạt-đa đang thắc mắc không biết
phải đi theo lộ trình nào mới gặp được hai nhà bác học Bà-la-môn (hai
đạo sĩ Ấn giáo) đang miệt mài đọc tụng thánh điển (Thánh Thư) và thảo
luận ý nghĩa của chúng.
"Họ phải là những người rất
mực thông thái", Hoàng tử suy nghĩ. "Ta sẽ đi hầu chuyện với họ,
may ra họ có thể giúp ta tìm ra sự thật".
Chàng đến gặp họ và ngồi nghe họ
thuyết giảng trong nhiều tuần, nhưng chàng thấy chẳng tiến gần chút
nào đến mục tiêu mà chàng tìm kiếm. Họ chỉ phí phạm thời giờ trong
các cuộc tranh cãi dai dẳng với nội dung dẫn đến sân hận và ác tâm.
Cuối cùng chàng từ bỏ họ. Chàng
men xuống một con đường râm mát rồi bước lên một ngôi đền, cửa đền
để mở, Tất-đạt-đa bước vào với hy vọng có thể thấy được sự
thật trong đó.
Nhiều giáo sĩ mặc áo chùng đứng
trước bàn hương án, trên đó có một con vật đang hấp hối với đôi mắt
quằn quại đau thương. Giáo sĩ nào tay cũng dính đầy máu, và, trên sàn
nhà, phía dưới bàn hương án, đọng lại một vũng máu tím bầm.
"Sao các ông tàn nhẫn thế?"
Hoàng tử thét lên, con tim nhạy cảm của chàng dường như bị vỡ tung khi
thấy cảnh đau đớn như thế.
"Chúng tôi đang tế thần để các
ngài ấy sẽ xả tội cho nhân dân". Vị Giáo trưởng đáp. "Thần
linh chỉ có thể hài lòng bằng hình thức đổ máu".
"Thần linh hiền thiện sẽ không
cần đến cái chết của những súc vật vô tội, ta không thể tin được
những lời phi lý như vậy". Hoàng tử lớn tiếng nói và nhanh chóng ra
khỏi nơi khủng khiếp ấy. Chàng biết sự thật không bao giờ có thể
tìm thấy được ở đó.
Sau nhiều tuần lang thang tìm kiếm,
chàng gặp được năm đạo sĩ có nếp sống khổ hạnh và thánh thiện. Những
người này tin rằng sự thật có thể tìm thấy bằng lối hành hạ xác
thân, chịu đựng đói khát và dùng dao bén cắt xẻ thân mình.
Tất-đạt-đa gia nhập theo họ. Chàng
cũng nhịn đói nhịn khát, hành hạ thân thể tàn bạo đến độ suýt chết
vì kiệt sức và đau đớn. Mặc dù sống ở đó đựơc sáu năm, mỗi ngày
một yếu dần, nhưng chàng thấy chả tiến gần tí nào đến mục tiêu mà
chàng tìm kiếm. Cuối cùng chàng quyết định từ giã các đạo sĩ đó và
nhắm đến nơi khác.
Trong khi chàng nằm ngất xỉu bên một
dòng sông, yếu đến nỗi không gượng dậy nổi để lấy nước uống, thì
có một thiếu nữ xuất hiện, dâng sữa cho chàng. Uống sữa xong chàng tỉnh
lại và có thể đứng lên đi được. Chàng ngõ lời tạm biệt năm người,
nhưng họ lấy làm tức giận vì chàng đang bỏ họ và họ quay lưng một cách
thô bạo. Tất-đạt-đa buồn bã ra đi, chàng rất mến các đạo sĩ đáng
thương kia, nhưng lại ghét lối lãng phí thời giờ vào cách ép xác vô
ích như vậy.
-ooOoo-
|
Lesson 8:
agony (n) : sự đau đớn, sự quằn quại altar : bàn thờ, án thờ anger (n) : sự sân hận, tức giận argument (n) : sự tranh luận be covered with : dính đầy, phủ đầy be filled with : đầy ắp be fond of : thích be of : có bearing (n) : phong thái beg (v) : van xin beneath (prep) : ở dưới bid goodbye to : chào tạm biệt Bimbisara : Tần-bà-sa-la blood (n) : máu brahmin (n) : đạo sĩ bà-la-môn cage (n) : cái lồng captive (a) : bị bắt giam catch sight : trông thấy crimson (n) : màu đỏ thẩm cruel (a) : tàn ác desire (n) : sự khao khát die of (v) : chết vì discuss (v) : thảo luận dreadful (a) : dễ sợ, khủng khiếp dying (a) : hấp hối faint (v) : ngất xỉu forgive (v) : tha thứ, hỷ xả cho goal (n) : mục tiêu, mục đích god (n) : thần linh gown (n) : áo lễ grave (a) : nghiêm trang grow (v) : trở nên, nảy nở guard (n) : vệ binh heir (n) : người thừa kế hindu (a) : thuộc Ấn giáo holy (a) : thánh thiện in search for : để tìm kiếm innocent (a) : ngây thơ, vô tội instead (adv) : thay vì, đáng lẽ journey (v,n) : làm cuộc hành trình, cuộc hành trình lean (v) : dựa, tựa living beings : chúng sanh manner (n) : thái độ, cử chỉ
___________
|
misery (n) : cảnh khốn khổ
noble (n) : quí tộc, quí phái once more : một lần nữa power (n) : quyền lực priest (n) : thầy tu prison (n) : nhà tù proclaim (v) : công bố, tuyên bố quench (v) : dập tắt Rajagriha : Vương-xá require (v) : đòi hỏi, yêu cầu revive (v) : làm sống lại, làm tỉnh lại riches (n) : của cải royal (a) : thuộc hoàng triều rudely (adv) : một cách thô lỗ sacred (a) : về thánh thần sacrifice (v) : hy sinh, cúng tế sage (n) : nhà hiền triết scripture (n) : kinh điển set out (v) : lên đường shady (a) : có bóng mát, râm mát share (v) : san sẻ, chia sớt sharp (a) : bén nhọn shedding (n) : sự đổ máu sin (n) : tội lỗi sorrow (n) : sự buồn phiền, sự đau khổ stain (v) : làm bẩn, làm nhớp starve (v) : chết đói, bắt nhịn đói stranger : người lạ mặt stream (n) : dòng suối sunrise (n) : bình minh temple (n) : đền, miếu, chùa tempt (v) : xúi giục, cám dỗ thirst (n) : sự khát nước torture (v) : tra tấn, hành hạ treat (v) : đối xử trust (n) : sự tín nhiệm turn one's back : quay lưng lại vow (v, (n) : thề, lời thệ nguyện waste (v, (n) : hoang phí, sự hoang phí weakness (n) : sự suy nhược whence (adv) : từ đâu whither (adv) : tới đâu wonder v) : tự hỏi worthy (a) : xứng đáng |
Nhận xét
Đăng nhận xét