Hòa thượng Thích Trí Tịnh nói về ý nghĩa và giá trị của tụng kinh
Đại lão Hoà thượng Thích Trí Tịnh
Ngoài
việc trở thành một dịch giả vĩ đại của kinh điển Đại thừa, đại lão Hòa
thượng Thích Trí Tịnh đến nay đã có trên 70 năm tụng kinh. Lời khai thị
của Hòa thượng dưới đây có ý nghĩa rất lớn cho người đọc tụng và thọ trì
kinh để mở mang tâm trí và thâm nhập kinh tạng.
Bạch Sư ông, tại Việt Nam, có người dùng từ đọc kinh, có người dùng từ tụng kinh. Ý nghĩa của hai thuật ngữ này thế nào?
Các
huynh đệ nên hiểu “tụng” là học thuộc lòng, những khi lên chánh điện
mặc áo tràng đắp y, thắp nhang lễ Phật, có chuông có mõ, mở kinh ra rồi
cho đó là tụng. Kỳ thật đó không phải là tụng kinh mà chỉ là đọc kinh.
Tụng kinh là phải đọc thuộc lòng kinh. Nên nhớ kỹ điều đó!Khi đã thuộc
lòng rồi, mình tụng mới có lợi ích lớn. Không những lúc mặc áo tràng đắp
y lên điện Phật, mà trong những khi đi đứng nằm ngồi, thỉnh thoảng
những lời kinh do mình thuộc nó sẽ khởi lên trong tâm.
Như
người đời thuộc những bài ca mà họ ưa thích, thì những khi đi đứng nằm
ngồi họ thường khe khẽ cất lên vài câu, hay trong tâm cũng thường nghĩ
nhớ đến những bài ca bài hát đó. Cũng vậy, nếu mình thường niệm Phật thì
nó khởi lên câu niệm Phật. Còn nếu mình thuộc lòng kinh thì những lời
kinh thường hay khởi lên thì ngay lúc đó là mình đã tụng kinh rồi.
Sư ông thường dạy rằng lời Phật thật quý báu. Vậy, người tụng kinh do tôn kính lời Phật sẽ đạt được lợi ích gì?
Mỗi
khi tụng kinh, mình nhớ lại những lời dạy của Phật thì đó là mình niệm
Pháp. Khoảng thời gian mình tụng kinh thì những niệm phiền não, những
niệm xấu, niệm ác bị đè phục nên không khởi lên; do bị đè phục nên nó
yếu đi, nó đã yếu thì lúc có khởi lên cũng khởi yếu. Đây là nói phục,
còn đoạn là khác nữa. Nhưng nhờ cái phục nên nó yếu. Vì yếu nên tội
chướng nghiệp chướng cũng yếu dần. Khi bên tội chướng, nghiệp chướng yếu
thì thiện căn công đức sẽ khởi dậy. Hai cái đó như hai cái giá cân. Nếu
bên này nặng thì bên kia bị nhẹ. Nếu bên này nhẹ thì bên kia nặng, lẽ
đương nhiên là như vậy. Nói cách khác, ngoài phước báu do tôn kính Phật
pháp, người tụng kinh có thể làm tiêu trừ nghiệp chướng.
Trong đời tu của Sư ông, hẳn nhờ tụng kinh Sư ông ngộ ra nhiều điều. Xin Sư ông đơn cử một ví dụ về cái ngộ nhờ tụng kinh?
Nay
tôi sẽ nói rõ điều này cho các huynhđệ nghe, vì thông thường ít ai nghĩ
đến. Nhân khi tụng kinh Kim Cang tôi đã khám phá ra một điều mà từ lâu
suy nghĩ không biết vì sao trong kinh nói một vị Tu đà hoàn dứt trừ được
kiến phiền não, còn tư phiền não thì chậm nhất là trong bảy đời dứt hết
thành A la hán. Vị Tu đà hoàn không có đời thứ tám, chỉ đến đời thứ bảy
là cuối cùng. Trong kinh nói rõ ràng, chứ không nói việc tu hành gì cả.
Tôi
thường suy nghĩ việc đó hoài, nghiệm mãi không ra. Cho đến khi tụng
kinh Kim Cang đến đoạn Phật hỏi ngài Tu Bồ Đề: Vị Tu đà hoàn có tự nói
mình là Tu đà hoàn không? Ngài Tu Bồ Đề đáp là không. Bởi vì Tu đà hoàn
gọi là nhập lưu. Nói nhập mà không chỗ nhập. Không nhập vào sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, do đó gọi là Tu đà hoàn. Ngay đó tôi hoát nhiên
phá giải được cái điều mà tốn không biết bao nhiêu thời gian suy nghĩ
vềlý do tại sao mà vị Tu đà hoàn không có đời thứ tám, chỉ nội trong bảy
đời dứt tư hoặc chứng A la hán.
Nghĩa
là vị Tu đà hoàn sau khi kiến hoặc đã dứt rồi thì tâm của vị ấy không
còn bị chi phối bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Do không bị chi
phối nên tư hoặc không có dịp phát khởi. Vì không phát khởi nên lần lần
nó mòn yếu đi. Do mòn yếu nên nó dứt lần lần. Dứt một phần thì thành Tư
đà hàm. Dứt thêm phần nữa thì thành A na hàm. Dứt thêm nữa cho đến dứt
sạch hết thì thành A la hán. Nó dứt từng phần, dứt lần lần.
Cũng
thế, hằng ngày mình có niệm Phật tụng kinh, thì lúc đó phiền não,
nghiệp chướng nó không khởi. Nó không khởi trong khoảng thời gian mình
có niệm Phật, tụng kinh, chứ không phải nó luôn luôn không khởi. Nhưng
có như vậy thì nó yếu lần đi. Nó yếu lầnđi thì cái lành cái tốt phát
triển lên thì gọi là mình có tu. Phiền não nghiệp chướng bị dằn bị phục
thì thiện căn công đức phát sanh, cho đến lúc nào đó sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp không còn chi phối nội tâm mình là thành công. Mà cũng
không biết đến lúc nào, bởi vì chủng tử phàm phu trong vòng sanh tử luân
hồi của mình nó nặng nề lắm, phiền não nghiệp chướng nặng nề lắm. Nhưng
nếu hằng ngày mình có phương pháp để dằn để phục, thì nó sẽ yếu lần
lần. Bằng không nếu bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chi phối thì mỗi
ngày chẳng những nó không yếu mà lại mạnh thêm, thì mình càng chui đầu
sâu vào vòng sanh tử luân hồi. Lẽ tất nhiên hai ngả rõ ràng như vậy.
Trên đây chỉ là một ví dụ. Nếu các huynhđệ mỗi ngày đều tụng kinh thì sẽ
tỏ rõ nhiều điều bổ ích. Do đó, tôi khuyên các huynh đệ siêng năng tụng
kinh để thâm nhập trí Phật.
Tại Việt Nam, khi tụng kinh, các chùa còn niệm Phật. Xin Sư ông khai thị về phương pháp niệm Phật trong tụng kinh?
Tôi
nói rõ để huynh đệ biếtrằng tụng kinh và niệm Phật đúng cách là thật
tu. Khi niệm Phật thì không duyên việc khác. Không duyên theo sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chỉ duyên nơi âm thanh câu niệm Phật. Huân
tập mỗi ngày một mạnh lên nơi hạnh niệm Phật thì những niệm sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp khác, mỗi ngày một bớt đi, vì trong khoảng thời
gian đó nó không khởi được thì nó phải giảm bớt. Mà nếu thời gian niệm
Phật càng ngày càng nhiều thì tất nhiên mỗi ngày mình lần lần tiến lên.
Cũng như người tu thiền giữ tâm đừng cho khởi vọng, tất nhiên là làm sao
cho nội tâm đừng bị chi phối bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nó
không chi phối thì phiền não nghiệp chướng không do đâu mà sanh khởi.
Phiền não nghiệp chướng không khởi được thì lần lần nhẹ đi, cho đến lúc
nào đó cũng như cái màn che bị rách, bị tan thì ánh sáng từ trong nội
tâm phát ra, gọi là tỏ ngộ. Hai đường tu dù Thiền dù Tịnh giống nhau,
chứ không chi khác.
Vậy, theo Sư ông tu thật chất là không để tâm dính vào sáu trần cảnh?
Đúng
vậy! Hằng ngày mình bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chi phối là
không có tu. Lúc nào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nó không chi phối
nội tâm của mình được, thì chính lúc đó là lúc mình tu. Nên nhớ kỹ như
vậy! Chứ không phải đợi đến lúc mặc áo, đắp y lên chánh điện. Mặc áo đắp
y lên chánh điện, lễ Phật mà bị cảnh ngoài sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp nó chi phối thì chưa phải là có tu.
Pháp
của Phật dạy nói cho rõ là tu tâm. Còn nơi thân và khẩu chỉ trợ giúp
cho nội tâm mà thôi. Nói vậy không phải phế bỏ những thời khóa tu tập,
ban đầu sức tu còn yếu thì phải nương vào thời khóa, quan trọng ở chỗ là
ngoài thời khóa cũng phải tu. Do đó niệm Phật không luận là lúc đi,
đứng, nằm, ngồi gì, nếu có niệm luôn thì có tu, mà bị gián đoạn là không
có tu. Đó là điểm chánh yếu. Tất cả các pháp môn khác cũng đều như vậy.
Bạch Sư ông, để thâm nhập kinh tạng khi tụng kinh, người tụng phải làm gì để đạt được?
Để
được như thế, khi tụng kinh phải thuộc lòng kinh. Chẳng những các thời
khóa trong chùa phải thuộc mà các kinh mình thích cũng phải thuộc. Như
tôi cũng vậy, thích Phổ Môn phải thuộc Phổ Môn, thích Kim Cang phải
thuộc Kim Cang, thích phẩm Phổ Hiền phải thuộc phẩm Phổ Hiền, cho đến
thích Pháp Hoa phải thuộc Pháp Hoa. Lúc trước mỗi ngày giữ đều đặn như
vậy, riêng kinh Pháp Hoa thì mỗi ngày tụng một biến hoặc hai ngày một
biến. Ai làm được như thế thì thâm nhập kinh tạng không khó.
Bạch Sư ông, người bận rộn với nhiều công việc không có thời gian để tụng nhiều thì làm thế nào có thể hiểu kinh được?
Người
bận rộn có thể chọn các phần kinh quan trọng để tụng. Tôi đơn cử cách
sắp thời gian của tôi trong quá khứ.Năm 1963 khởi lên việc tranh đấu với
ông Diệm và năm 1964 thành lập GHPGVN Thống Nhất, tôi phải bận nhiều
công việc nên mỗi ngày không có thời gian tụng kinh Pháp Hoa. Ai cũng
biết tụng kinh phải tụng luôn nếu không lại quên nên không thể tiếp tục
việc tụng kinh Pháp Hoa, mà chỉ giữ lại bài kệ phẩm Phương Tiện làm thời
khóa cho đến bây giờ. Bài kệ phẩm Phương Tiện cũng nhiều lắm, gần 500
câu chứ đâu phải ít. Khi có thểthu xếp thời gian thì ta tụng cố định và
đều đặn hơn thì mới hiểu kinh thấu đáo được.
Hiện
nay, thời khóa mỗi ngày của tôi nhất định phải có là: sáng sớm thức dậy
tụng phẩm Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm, kinh Kim Cang, bài kệ phẩm
Phương Tiện của kinh Pháp Hoa, kinh Phổ Môn, kinh A Di Đà” rồi hoàn kinh
niệm Phật. Nếu tụng ra tiếng thì hơn 2 tiếng đồng hồ, nếu tụng thầm thì
trên dưới một tiếng rưỡi. Năm nay tôi đã 94 tuổi nên chỉ thực hiện thời
khóa bằng cách tụng thầm mà thôi, chứ tụng ra tiếng thì không nỗi nữa
rồi. Sở dĩ tôi nói kỹ như vậy để chúng ta biết rõ cách tu tập của mình
là phải có sự liên tục hằng ngày. Không nên lúc có, lúc không.
Tụng
kinh niệm Phật ngoài mục đích chính yếu là vãng sanh Cực Lạc ra, còn có
tác dụng hàng phục những phiền não nghiệp chướng, khiến cho những thiện
căn công đức được tăng trưởng. Nếu mỗi ngày tu hành đều đặn như vậy,
tất nhiên lần lần bớt đi phần phàm phu sanh tử mà tiến lần trên con
đường Hiền Thánh giải thoát.
Bạch Sư ông, khi hiểu kinh rồi thì lộ trình tu bao lâu mới đạt kết quả?
Ngay
đức Phật cũng phải trải qua vi trần số kiếp tu tập chứ không phải con
số ức muôn mà mình thường tính toán. Phải lấy số vi trần để tính số kiếp
tu hành. Rõ ràng như vậy, chính đức Phật nói chứ không ai khác. Như
Phẩm Đề Bà Đạt Đa trong kinh Pháp Hoa, ngài Trí Tích Bồ tát nói: “Tôi
xem trong cõi Tam thiên Đại thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hột cải
mà không phải là chỗ của Bồ tát (chỉ cho Phật Thích Ca) bỏ thân mạng để
vì lợi ích chúng sanh, vậy sau mới thành đạo Bồ đề”. Chứ không phải
thường thường như chúng ta, làm được chút ít công đức gì đó mà đòi thành
ông Hiền ông Thánh liền đâu. Trong kinh dạy rất đầy đủ, nhất là kinh
Đại Bửu Tích nói về công hạnh của các vị Bồ tát rõ ràng lắm. Mọi người
nên cố gắng tìm đọc. Tôi bây giờ phải nhờ người khác đọc để biết được
công hạnh của các ngài quá khứ tu thế nào, hiện tại thành tựu thế nào.
Nói chung, việc dứt trừ nghiệp chướng phiền não để ra khỏi sanh tử luân
hồi không phải là chuyện dễ. Nhưng mình có tu tập đều đặn là mình có
bước đi. Mà đã có bước đi là có lúc đến. Có bước một bước là có giải
thoát một bước, chứ không phải đợi đến đích rồi mới giải thoát. Thường
nghĩ như vậy lại thấy vui. Bởi vì biết mình mỗi ngày có bước là mỗi ngày
gần thêm bờ giải thoát. Nên nhớ kỹ là vi trần số kiếp chứ không phải ít
đâu. Không phải nghe nói: “Tức tâm tức Phật” rồi cho rằng thấy tâm là
thành Phật. Vì nếu như vậy là mình hơn Phật Thích Ca xa lắm rồi.
Thích Hoằng Tri
_______
Nhận xét
Đăng nhận xét