Hành trình về phương Đông | Chương 6: Những sự kiện huyền bí
Tiến sĩ Kavir cho biết nếu phái đoàn muốn nghiên cứu những sự
kiện huyền bí, những phép thuật lạ lùng thì phải đến gặp pháp sư
Vishudha.
Tiến sĩ Kavir cho biết nếu phái đoàn muốn nghiên cứu những sự kiện
huyền bí, những phép thuật lạ lùng thì phải đến gặp pháp sư Vishudha.
Vị pháp sư này có lệ không bao giờ tiếp khách, ngay cả những tín đồ
thuần thành sùng kính nhất. Ông sống trong một căn nhà nhỏ với một vài
đệ tử thân tín và rất ít khi ra ngoài. Các đệ tử cho biết thầy họ không
bao giờ biểu diễn phép thuật dù ở nơi kín đáo, và không chịu cho phái
đoàn vào. Tiến sĩ Kavir mang hết tài dẫn dụ ngoại giao cũng như quyền
lực hăm dọa nhưng họ vẫn khăng khăng. Sự hiện diện của một nhóm người Âu
gây nhiều chú ý của dân chúng và tín đồ hành hương, nên chỉ sau một
lúc, một đám đông đã vây kín phái đoàn. Có lẽ tiếng động ồn ào này tạo
sự chú ý của vị pháp sư nên ông ra lệnh cho đệ tử mời tiến sĩ Kavir vào
nói chuyện.
Một lát sau, Kavir bước ra, nét mặt hân hoan:
- Đạo sư Vishudha không tiếp khách lạ, nhưng ngài đặc biệt tiếp phái đoàn như một ngoại lệ đấy.
Đó là một ông lão to lớn, tóc bạc trắng như cước ngồi trên tấm bồ đoàn
kết bằng cỏ, nét mặt ông lạnh như băng và đôi mắt như nhìn vào khoảng
không, như không thèm chú ý gì đến phái đoàn. Một đệ tử lên tiếng:
- Các ông đến đây với mục đích gì?
Giáo sư Allen lên tiếng:
- Chúng tôi được biết đạo sư có các quyền năng phi thường. Mục đích
chuyến đi này của chúng tôi là nghiên cứu những sự kiện huyền bí, ghi
nhận một cách khoa học những điều tai nghe, mắt thấy…
- Nếu đạo sư vui lòng…
Vishudha nghe thông ngôn xong, mỉm cười yêu cầu giáo sư Oliver cho mượn
một cái khăn tay và một cái kính lúp. Ông ta giơ chiếc kính lên ánh
sáng mặt trời cho nó chiếu lên chiếc khăn tay và tuyên bố:
- Tôi sẽ thu hút các mùi hương trong không khí, các ông thích mùi gì?
- Tôi thích mùi hoa lài.
Visudha mỉm cười trao trả chiếc khăn cho giáo sư Oliver. Một mùi hương
phảng phất khắp phòng và ai cũng biết đó là mùi hoa lài. Mọi người quan
sát kỹ chiếc khăn, nó không hề ướt hay có dấu hiệu gì rằng người ta đã
nhỏ vào đó một chút dầu thơm. Như đoán được ý nghĩ của mọi người,
Vishudha yêu cầu giáo sư Mortimer đưa ra một chiếc khăn tay khác. Tiến
sĩ Kavir thông dịch:
- Bây giờ các ông hãy chọn một mùi hoa gì đặc biệt của xứ các ông mà không hề có tại xứ Ấn Độ.
- Được lắm, tôi muốn mùi hoa uất kim hương (tulip).
Visudha mỉm cười giơ chiếc kính lúp lên ánh sáng mặt trời cho nó chiếu
vào chiếc khăn và lần này mùi hoa uất kim hương lại thơm nồng khắp
phòng. Phái đoàn vội vã yêu cầu những mùi hương lạ lùng và lần nào ông
cũng làm họ hài lòng. Thậm chí đến cả những mùi thuốc hóa học, những mùi
a-xít trong phòng thí nghiệm, ông cũng có thể làm được. Mọi người quan
sát kỹ xem ông ta có giấu gì dưới lớp áo choàng không. Vishudha mỉm cười
vén cao tay áo để chứng tó ông không hề làm trò ảo thuật hay cất giấu
hương liệu gì đặc biệt trong người.
Giáo sư Mortimer buột miệng:
- Xin ông giải thích việc này?
Mọi người giật mình vì trong phong tục xứ Ấn, chất vấn một đạo sư là
điều bất kính. Vishudha quay sang Kavir nói vài lời, ông này thông dịch:
- Đó chỉ là môn khoa học gọi là Thái dương học. Ánh sáng mặt trời chứa
đựng một năng lực rất mạnh, nếu biết chọn lựa và cô lập nó, ta có thể
tạo mọi vật theo ý muốn.
Giáo sư Mortimer giật mình:
- Thái dương học, phải chăng đó là môn khoa học của dân Atlantic?
- Đó là môn khoa học đã một thời thịnh hành tại châu Atlantic, nhưng không phải của riêng giống dân này.
- Như thế châu Atlantic là có thật…châu này đã chìm xuống biển từ lâu
và chỉ có Plato ghi nhận lại trong tập sách của ông…Chuyện này ra sao?
Vishudha trầm ngâm:
- Tin hay không là tùy các ông. Người Âu lúc nào cũng đòi hỏi bằng
chứng này nọ, nếu các ông muốn gọi nó là truyền thuyết cũng chẳng sao….
Khoa học nơi đâu cũng có nguồn gốc, nhưng khi tiến đến một trình độ cao
xa thì thời gian hay không gian đâu có nghĩa lý gì nữa. Khoa Thái dương
học thật ra xuất xứ từ Tây Tạng ở một thời đại xa xôi, khi Ấn Độ còn là
một hòn đảo và rặng Hy Mã Lạp Sơn còn là một bờ biển…Nhưng điều này đâu
có ích gì cho việc nghiên cứu của các ông?
- Ông có thể làm gì với môn này?
- Các ông còn muốn gì? Như vậy chưa thỏa mãn sao?
Vishudha đứng dậy bước đến bên một chậu hoa gần đó. Mặc dầu chậu nở đầy
hoa, nhưng trong đó cũng có một số hoa đã tàn. Vishudha giơ chiếc kính
lúp chiếu lên các hoa này. Trước cặp mắt kinh ngạc của mọi người, những
hoa khô héo bỗng trở nên tươi tốt, thơm tho. Mọi người nín thở, không ai
nói nên lời. Vishudha giơ chiếc kính lên chiếu vào lòng bàn tay ông.
Một chùm nho tươi tốt bỗng xuất hiện. Nên biết Ấn Độ là xứ nhiệt đới,
không trồng được nho, hơn nữa lúc đó đang vào mùa đông, các cây nho bên
châu Âu cũng đều khô héo. Có được chùm nho tươi tốt là một việc vô lý,
lạ lùng. Vishudha đưa chùm nho cho giáo sư Allen xem và thản nhiên tuyên
bố:
- Đây là giống nho Pajouti chỉ mọc ở miền nam nước Ý, không hề được xuất cảng. Mùi của nó thơm nhưng vị hơi chát.
Mọi người xúm lại xem chùm nho. Có người ngắt vài quả bỏ vào miệng ăn
như sợ rằng đó chỉ là một ảo tưởng. Chờ mọi người ăn xong, Vishudha
trịnh trọng:
- Đây đâu phải lần đầu các ông thấy một sự lạ xuất hiện. Các ông đã
nghe nói về chuyện này rồi đấy chứ. Các ông không nhớ chuyện đấng Christ
hỏi thánh Phillip ở thành Galileo: “Chúng ta sẽ mua bánh mì ở đâu?”.
Ngài biết rõ rằng bánh mì mà đám quần chúng đang cần dùng không phải mua
ngoài chợ. Ngài mượn dịp đó để chỉ cho các tín đồ rằng người ta có thể
tạo ra bánh mì bằng sức mạnh của tinh thần. Thông thường mọi người chỉ
nghĩ rằng ta có bao nhiêu bánh mì hay bao nhiêu tiền bạc là chỉ giới hạn
trong một khuôn khổ nào đó thôi. Điều Đức Jesus muốn nói là khi ta đã
sống với tâm thức của Chân Ngã, thì người ta không còn thiếu sót hay gò
bó vào một giới hạn nào nữa. Ngài nhìn về Thượng đế là nguồn gốc sáng
tạo ra muôn loài, và tạ ơn Thượng đế đã luôn đặt vào tay loài người cái
quyền năng và chất liệu cần thiết để thỏa mãn tất cả nhu cầu của họ. Đức
Jesus đã bẻ bánh mì và bảo tông đồ hãy phân phát cho mọi người. Khi tất
cả ăn no rồi mà vẫn còn dư đến 10 rổ bánh. Cũng bằng cách đó mà Elisê
đã làm cho người quả phụ thành Jerusalem có dầu ăn thừa thãi không bao
giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có dư thừa dầu trong nhà, vì như thế số
dầu chỉ giới hạn mà thôi. Những câu chuyện trong Kinh Thánh đã dạy ta
điều gì? Phải chăng các môn khoa học đời nay không thể giải thích vấn đề
này? Phải chăng có kẻ cho đó chỉ là một chuyện thần thoại? Có lẽ các
ông cho rằng những chuyện này được ghi chép từ lâu rồi nên có phần nào
sai lạc đi?
Mọi người trong phái đoàn giật mình vì câu hỏi bất ngờ. Kinh Thánh đối
với họ không phải quyển sách nào xa lạ. Phần lớn đều thuộc lòng nhưng ít
ai suy nghĩ cặn kẽ về những sự kiện trong đó. Vishudha mỉm cười nhìn
từng người rồi tiếp tục:
- Đức Jesus đã dạy rằng trong thiên nhiên có chất liệu để làm đủ mọi
vật, và người ta có thể tìm lương thực của mình trong đó. Chúng ta chỉ
cần rút các chất liệu này để tạo ra mọi thứ cần dùng. Nhưng con người
hèn nhát và thiếu đức tin đã không nghĩ rằng họ có thể thực hiện được
những việc này. Nhu cầu phải chăng cũng là ý muốn sáng tạo? Thay vì vươn
lên để thực hiện ý muốn, để sáng tạo thì con người lại thu hẹp mình
lại, nghĩ rằng mình không thể làm được những việc đó. Vì thế con người
càng ngày càng rời xa Thượng đế. Đến nay con người tin rằng họ là một
thực thể cách biệt với Thượng đế. Họ đã đi lệch hẳn con đường toàn vẹn,
bỏ lỡ cái mục đích cao đẹp. Họ đã không để Thượng đế biểu lộ xuyên qua
họ như ngài muốn. Chính Đức Jesus đã nói rằng: “Những gì mà ta làm được
thì các ngươi cũng sẽ làm được, và các ngươi sẽ còn làm được những việc
lớn lao hơn nữa”. Ngài muốn nói điều gì đây? Phải chăng con người trong
cương vị chân thật, chính là con của Thượng đế? Sứ mạng của Đức Jesus
trên thế gian chính là chứng tỏ rằng trong cương vị nào đó, con người
cũng có thể sáng tạo một cách hoàn toàn tốt đẹp như Thượng đế. Khi ngài
ra lệnh cho người mù hãy ra ao Siloe rửa mắt, phải chăng ngài đã chứng
tỏ cho quần chúng biết rằng ngài được Thượng đế gửi xuống để sáng tạo
cũng như Thượng đế vậy?
Vishudha ngừng nói, đưa tay ra, một ổ bánh mì to lớn bỗng xuất hiện
trên tay ông. Tất cả mọi người im lặng, nín thở, không ai thốt nên lời.
Sự kiện một đạo sư Ấn không nói gì về truyền thống, tôn giáo xứ này, mà
lại nói về Kinh Thánh như một vị mục sư làm mọi người kinh ngạc. Bỗng
nhiên ổ bánh mì biến mất như bị thiêu hủy. Vishudha mỉm cười thong thả:
- Các ông đã thấy, tôi đã lạm dụng các định luật huyền bí giúp tôi thực
hiện ý muốn. Tôi vừa đốt cháy đồ vật mà tôi tạo nên. Làm như thế tôi đã
lạm dụng một điều luật bất di bất dịch của thiên nhiên. Nếu tôi tiếp
tục làm thế thì không những món đồ bị đốt cháy, mà chính kẻ sáng tạo là
tôi cũng chịu chung số phận. Các ông đã ngửi mùi hương và việc tôi làm
các bông hoa hồi sinh, cũng như việc chùm nho xuất hiện…. Tôi có thể sử
dụng quyền năng này khi làm một việc có ích cho nhân loại, hoặc với một
lòng bác ái thanh cao vì đó là hợp với luật vũ trụ, hợp với thiên ý.
Trái lại, chỉ với một ý định xấu xa như khoa trương bản ngã, tôi sẽ đi
lệch đường và chịu trách nhiệm về việc làm của mình, nghĩa là sẽ gặp
ngay sự phản tác dụng về hành động của mình. Tôi đốt cháy một vật thì
tôi cũng có thể cháy thành than tức khắc. Nếu con người phụng sự Thượng
đế, hành động đúng theo thiên ý, hợp luật trời thì y đã bước chân vào
cõi trời rộng mở, còn ngược lại thì y đang bước vào cánh cửa của địa
ngục rồi đó…
Vishudha nhìn thẳng vào mặt mọi người:
- Này các ông, những nhà thông thái, thế đã thỏa mãn các mong ước, hiếu
kỳ của các ông chưa? Nếu các ông còn mê man trong các cuộc khảo cứu,
ghi nhận các hiện tượng lạ lùng mà khoa học chưa giải thích được thì
khắp thành phố này, có hàng trăm đạo sĩ, pháp sư có thể làm những chuyện
đó. Điều đáng tiếc rằng rất ít người hiểu biết về cái hậu quả họ sẽ
phải gánh chịu. Các ông muốn ghi nhận những phép thuật thần thông để làm
gì? Phải chăng các ông sẽ công bố cho mọi người Âu Mỹ biết hay sao? Như
thế có ích lợi gì? Liệu đã có mấy ai tin tưởng rằng những điều các ông
nói không phải là một sự tưởng tượng? Có thể họ sẽ lên án các ông là
đằng khác. Có bao giờ các ông nghĩ rằng mình đang làm một chuyện vô ích
hay không? Có lẽ các ông sẽ làm những phúc trình về các hiện tượng lạ
lùng, nhưng rồi điều ấy sẽ đi đến đâu? Cuộc đời đâu phải chỉ là quan sát
ghi nhận rồi làm những thống kê, có phải không? Này các nhà thông thái,
các ông đã khám phá thế nào là mục đích cuộc đời chưa? Nếu các ông chưa
tự hỏi mục đích cuộc đời mình để làm gì thì ghi nhận, nghiên cứu có ích
lợi gì đâu? Khi chưa tìm được lời giải đáp cho chính mình thì các phúc
trình, thống kê cũng vô ích thôi, có phải như thế không?
Một sự im lặng bao trùm căn phòng. Vishudha thong thả ngồi trên tấm bồ
đoàn, không nói thêm điều gì nữa. Tiến sĩ Kavir ra hiệu cho phái đoàn
rút lui. Rời khỏi căn nhà đá, toàn thể mọi người đều xúc động, không ai
nói lên một lời nào. Những sự kiện xảy ra đã làm đảo lộn mọi quan niệm
thông thường về vật lý, hóa học… Đúng như nhà đạo sĩ đã nói, làm sao
chứng minh một phép lạ đây?
Làm sao có thể cho những người Âu đang bận rộn với mưu sinh tại New
York hay London biết rằng ở phương Đông có những bí mật vô tận, những
triết lý cao cả mà người phương Tây không thể hiểu. Tư tưởng phương Đông
đã vượt xa, rất xa những tư tưởng tiến bộ nhất của phương Tây. Có lẽ
các nhà hiền triết xứ này đã mỉm cười trước những ngông cuồng, hỗn tạp
của cái gọi là khoa học tiến bộ. Câu hỏi của Vishudha khiến mọi người
suy nghĩ rất nhiều. Lúc đầu, ai cũng mong ghi nhận những điều lạ lùng để
nghiên cứu nhưng trước những sự kiện mà khoa học không thể giải thích,
toàn thể mọi người đâm ra bối rối không biết phải làm gì.
Giáo sư Spalding nhớ lại câu nói của người Ấn thành Benares: “Nếu các
ông chỉ muốn nghiên cứu các hiện tượng thần thông, các quyền năng lạ
lùng thì hãy đến Rishikesh, các ông sẽ không thất vọng. Nhưng nếu các
ông muốn đi xa hơn để có thể gặp các bậc chân sư thì các ông cần một
thời gian nữa”. Sự gặp gỡ các vị chân sư thánh triết có sức hấp dẫn lạ
lùng đối với phái đoàn, nhưng tại sao phải chờ đợi thêm một thời gian
nữa? Hình như có một nguyên nhân sâu xa nào đó mà phái đoàn không thể
giải thích, mọi người linh cảm như đã có những sự xếp đặt huyền bí cho
việc du khảo tại phương Đông này.
Harishchandra là một đạo sĩ dòng tu Swami, thường đi khắp nơi, ít khi
nào ở một chỗ. Lần này ông ghé thăm tiến sĩ Kavir ít hôm, nên phái đoàn
có cơ hội gặp gỡ. Ông trạc 60, thân hình cao lớn, có đôi mắt sáng ngời.
Sau vài câu xã giao, ông cho phái đoàn biết tuổi thật của ông đã quá
100, và tin rằng ông sẽ còn sống ít ra vài chục năm nữa.
- Tại sao ông nghĩ mình sẽ sống lâu như thế?
- Tại vì lúc này khả năng sáng tạo của tôi rất mạnh. Tôi tin rằng với
bộ óc còn linh hoạt như một thanh niên, tôi có thể sống khá lâu nữa.
Tiến sĩ Kavir mỉm cười tiếp lời:
- Harishchandra không những là một đạo sư Yoga mà còn là một nghệ sĩ.
Ông ấy có thể sử dụng tất cả nhạc khí cổ điển cũng như tân tiến, ông còn
vẽ tranh, nặn tượng, làm thơ… Tóm lại, chả có bộ môn nghệ thuật nào mà
ông ta không biết.
Giáo sư Mortimer tò mò:
- Ông theo học ở đâu và làm sao có thể biết nhiều thứ như vậy?
Hashichandra cười lớn:
- Tiến sĩ Kavir nói không đúng đâu. Tôi chỉ biết chút đỉnh về vài bộ
môn nghệ thuật. Tôi không hề được đi học nhưng Yoga đã giúp tôi…
Giáo sư Mortimer hấp tấp:
- Ông muốn nói đến phương pháp khí công hay các tư thế?
Đạo sĩ bật cười lớn:
- Không phải thế, tôi ý thức được sự sáng tạo trong một buổi thiền
định, và từ đó tôi có thể làm được nhiều thứ. Đa số con người đều coi
nghệ thuật như một phương tiện giải trí, họ sử dụng nghệ thuật như một
cái gì giúp họ trốn thoát hoàn cảnh con người của họ. Nghe một bài ca,
một câu hát họ quên đi các ưu phiền hiện tại… Đó không phải là sự thưởng
thức cái Chân, Thiện, Mỹ của nghệ thuật. Nghệ thuật mà tách khỏi cuộc
sống thì chỉ là một kỹ thuật phô diễn những gì hời hợt, các ước vọng
nông cạn. Nguồn cảm hứng không phải mời gọi mà được, mà là một rung động
tự nhiên. Tất cả cố gắng chiếm đọat cảm hứng qua bất cứ một hình thức
nào, chỉ là những ảo tưởng. Tài năng, thiên tư chỉ giúp ta nhận thấy bản
ngã, giúp ta thỏa mãn các ước vọng thấp hèn, và làm thui chột sự sáng
tạo. Một nghệ sĩ chân chính là người thực sự vượt qua các hư ảo của bản
ngã, của danh vọng và ý thức cái đẹp của nghệ thuật như một thực tại.
Nhìn thấy mọi người có vẻ ngơ ngác. Harishchandra mỉm cười giải thích:
- Nội tâm con người là một bãi chiến trường luôn luôn có xung đột giữa
các quan niệm, hình thức, lý thuyết, thực hành. Sự tranh chấp này thường
gây lầm lỗi. Khi ta nghe một bản nhạc, thưởng thức một bức tranh, ta
rung động theo cảm nhận của ta. Rung cảm này mỗi cá nhân một khác, vì nó
dựa theo các quan niệm, thành kiến sẵn có. Nếu tôi thích nhạc Mozart,
thì tất cả các nhạc sĩ khác đều khó có thể so sánh với ông này. Dĩ nhiên
người mê Beethoven sẽ không đồng ý như thế. Tóm lại, sự rung động của
tôi đã hàm chứa thái độ thành kiến, và phần nào làm tôi mất đi tính nhạy
cảm đối với sự sáng tạo. Một người nghệ sĩ sẽ trở thành một cái máy nếu
chỉ biết phục vụ cho bản ngã, làm việc để phô trương cá nhân, để thỏa
mãn dục vọng thay vì để sáng tạo. Họ chỉ biết “tôi viết”, “tôi soạn
nhạc”, “tôi vẽ”, “tôi sáng tác”, v.v. Từ phút đó, họ mất đi khả năng
sáng tạo tuyệt vời mà chỉ còn là cái xác không hồn. Sự thành công, lời
khen tặng làm căng phồng bản ngã của họ và làm lu mờ sự rung động với
cái đẹp thật sự. Cái tinh thần ham lợi, háo danh đó không phải là tinh
thần yêu cái đẹp, mà nó bắt nguồn từ sự khao khát dục vọng. Dục vọng đòi
hỏi một sự bảo đảm an toàn, do đó người nghệ sĩ đâm ra sợ hãi. Từ đó,
họ xây một bức rào ngăn cách họ với mọi sự vật khác. Họ không còn chiêm
ngưỡng những cái đẹp nữa. Dĩ nhiên, cái đẹp vẫn còn đó nhưng lòng họ đã
khô héo vì thành kiến và xu hướng biệt lập. Thay vì nhìn sự vật như một
thực tại, họ lại nhìn nó qua một hình thức sưu tập, chiếm hữu, biến nó
thành một đồ vật. Người nghệ sĩ chân chính chỉ biết sáng tạo, người bình
thường chỉ biết thưởng thức. Chúng ta đọc sách, nghe nhạc, ngắm các tác
phẩm nghệ thuật nhưng chúng ta không hề có cái rung động sâu xa của
người sáng tạo. Muốn ca hát ta cần có một bản nhạc, nhưng vì không có
bản nhạc tuyệt diệu, chúng ta đâm ra theo đuổi ca sĩ. Thiếu sự trung
gian này, ta thấy mất mát. Trước một vẻ đẹp, ta lại có ý so sánh nó với
một bức tranh; trước một âm thanh thiên nhiên ta lại chỉ tưởng tượng đến
một bản nhạc nào đó. Ta chỉ còn biết rung động qua sự rung động của kẻ
khác. Đó không phải là sáng tạo.
Giáo sư Mortimer lắc đầu:
- Muốn sáng tạo, ta cần có tài năng thiên phú chứ đâu phải ai cũng có thể sáng tạo, đâu phải ai cũng có tài…
Harishchandra lắc đầu:
- Không phải thế, ai cũng có thể sáng tạo mà không cần tài năng đặc
biệt, vì sự sáng tạo là trạng thái tuyệt vời của nghệ thuật. Không bị
ảnh hưởng của bản ngã. Sáng tạo không có nghĩa là soạn nhạc, làm thơ, vẽ
tranh, mà là một trạng thái trong đó Sự Thật có thể biểu hiện. Sự Thật
chỉ có thể biểu hiện khi tư tưởng ngưng đọng lại. Và tư tưởng chỉ ngưng
đọng lại khi bản ngã vắng mặt. Khi tâm hồn hoàn toàn tĩnh lặng, không bị
thôi thúc bởi dục vọng, khả năng sáng tạo sẽ tự biểu lộ. Khi “cái ta”
không còn nữa, thì tất cả là một sự hợp nhất thiêng liêng. Cái đẹp có
thể được diễn tả trong một bài thơ, bản nhạc, nụ cười hay trong sự im
lặng. Phần lớn con người không có khuynh hướng yên lặng. Chúng ta không
có thời giờ quan sát đám mây trời, buổi hoàng hôn, một ngọn núi hùng vĩ,
một bông hoa hé nở, vì đầu óc chúng ta quá bận rộn, quay cuồng. Mắt ta
nhìn cảnh nhưng lòng ta không rung động chút nào, vì còn mải mê theo
đuổi những ảo ảnh. Đôi khi ta cũng có cảm giác rung động khi nghe một
bản nhạc hay, nhưng nếu ta cứ nghe đi nghe lại bản nhạc đó để tìm lại
cảm giác ban đầu thì ta đã vô tình giết chết sự sáng tạo. Người nghệ sĩ
chân chính là người mở rộng tấm lòng để cảm hứng đến một cách tự nhiên,
là người nhìn thấy Chân, Thiện, Mỹ ở khắp tất cả mọi nơi, chứ không phải
qua khả năng hồi tưởng hoặc qua một chất kích thích. Người nghệ sĩ chân
chính sáng tạo vì lòng yêu cái đẹp, chứ không phải vì tác phẩm sẽ đem
lại cho họ tên tuổi, tiền bạc, địa vị. Làm thế là đồng hóa cá nhân mình
vào đối tượng. Bất cứ ai biết rung động trước cái đẹp đều là nghệ sĩ,
đều là người sáng tạo vì cái cảm giác chân thật, tuyệt vời đó chính là
một sự “giác ngộ”, một sự hợp nhất. Cái cảm giác đó không thể tự tạo hay
tìm mà có được, nó đến và đi một cách tự nhiên…
- Phải chăng ông đã có kinh nghiệm đó?
- Trong một buổi tham thiền, tôi ý thức được điều này, và từ đó tôi
nhìn thấy cái đẹp ở bất cứ nơi đâu. Tôi sống trong tâm thức này và có
thể sáng tạo mãnh liệt qua bất cứ một phương diện hay hình thức nào… âm
nhạc, hội họa, thơ phú, v.v.
- Ông có thể cho chúng tôi nghe một bài nhạc không?
Harishchandra mỉm cười, rút trong áo ra một cây sáo trúc rất dài, đưa
sáo lên miệng nhưng rất lâu không một âm thanh nào phát ra. Giáo sư
Mortimer sốt ruột:
- Chúng tôi không nghe thấy gì cả, ông có thổi sáo hay không đó?
Đạo sĩ ung dung:
- Các ông chưa biết thưởng thức âm nhạc vì lòng các ông còn đầy thành kiến, hãy im lặng vì âm thanh của tôi là sự bình an…
Giáo sư Mortimer toan cãi, nhưng đạo sĩ đã đưa một ngón tay lên môi làm
hiệu để ông im lặng. Bất chợt giáo sư Mortimer rùng mình, một âm thanh
kỳ lạ ở đâu bỗng phát ra. Một cảm giác bình an từ từ thấm nhẹ trong cơ
thể và ông thấy mình đắm chìm trong một niềm hoan lạc khó tả, trong một
thế giới lạ lùng của âm thanh. Âm thanh thật chậm, thật êm, nhỏ như
tiếng gió thì thào qua các ngọn cây, như tiếng nước róc rách qua khe
suối. Thời gian như ngưng đọng lại.
Khi giáo sư Mortimer giật mình tỉnh lại thì âm thanh đã chấm dứt từ
lâu. Đạo sĩ vẫn ngồi yên khẽ mỉm cười, cây sáo trúc đặt trước mặt. Toàn
thể phái đoàn ngây người nhìn nhau không nói nên lời. Giáo sư Mortimer
lắc đầu thắc mắc:
- Âm thanh gì kỳ vậy? Liệu ông có thể giải thích được không?
Đạo sĩ mỉm cười:
- Các ông nên biết, con người có nhiều thể bao quanh xác thân như thể
phách, thể vía, thể trí…Các thể này được cấu tạo bằng những nguyên tử
rất nhẹ, rất thanh, gần như vô hình. Âm nhạc tự nó đã có các rung động
cùng nhịp với sự rung động của các thể, nên ảnh hưởng rất nhiều đến con
người. Âm thanh vừa qua căn bản dựa trên “phần tư âm”, có tác động lên
thể trí các ông. Các loại âm thanh dựa trên “phần ba âm” tác động lên
thể vía, và “phân nửa âm” tác động lên thể xác. Điều này cũng dễ hiểu
thôi, vì “phần tư âm” thanh hơn nên ảnh hưởng đến các thể nhẹ hơn. Con
người chỉ biết tác động của âm nhạc ở cõi vật chất nhưng không hiểu ảnh
hưởng của chúng ở các cõi trên. Âm nhạc lưu một dấu vết trên thân thể
con người và trực tiếp ảnh hưởng đến tính tình, hành động. Điều này có
thể ví như khi ta ném một hòn đá xuống ao. Khi hòn đá chìm thì làn sóng
vẫn gợn, và lan rộng ra. Một cái lá nổi trên mặt nước chắc chắn sẽ chịu
nhiều ảnh hưởng. Ảnh hưởng của âm nhạc còn mạnh hơn như vậy. Do đó, việc
chọn nhạc để nghe rất quan trọng. Kinh Veda đã nói: “Vũ trụ tạo lập do
sự phối hợp các âm thanh”. Thánh Kinh cũng ghi nhận: “Huyền âm xuất hiện
trước nhất, và huyền âm ở với Thượng đế, huyền âm là Thượng đế”.
Phái đoàn nhìn nhau, một lần nữa tu sĩ Ấn giáo đã giải thích một đề tài
mới lạ và trích dẫn Thánh Kinh, quyển sách không xa lạ với người Âu.
- Nhờ âm thanh mà các sinh vật thông cảm với nhau. Quyền năng này rất
đơn giản ở loài vật và dần dần trở nên phức tạp ở loài người. Từ ngôn
ngữ đến tiếng hát thô sơ chỉ có vài bước và bước này tạo nên âm nhạc. Âm
nhạc là một công thức tế nhị, kín đáo để truyền thông nhưng nó có một
tác dụng cực mạnh, có thể làm thay đổi quốc gia, xã hội, truyền thống.
Nó còn mạnh mẽ hơn các giáo điều, triết lý vì nó ảnh hưởng đến các thể
vô hình. Con người chỉ hiểu rằng khi nghe nhạc buồn lâu ngày, ta sẽ trở
nên u sầu. Khi nghe nhạc vui, lòng ta thấy phấn khởi. Thật sự lòng ta
chỉ phản ảnh một cách vô thức những đổi thay trong các thể. Từ ngàn xưa,
âm nhạc đã giữ một địa vị quan trọng và ảnh hưởng rất lớn từ vua chúa
đến thứ dân. Các ông không thấy thời đại nào có âm nhạc càng thay đổi,
biến chuyển nhiều thì thuần phong mỹ tục càng suy giảm, và xã hội càng
đảo lộn hay sao? Trái lại khi âm nhạc bị hạn chế thì xã hội đâm ra bảo
thủ. Các ông cho rằng âm nhạc là sản phẩm văn hóa, tiêu biểu cho từng
thời kỳ. Điều này không đúng lắm vì lịch sử cho thấy mỗi khi âm nhạc
thay đổi là chính trị, văn hóa thay đổi theo sau. Âm nhạc có tính cách
xây dựng cũng như hủy hoại, chỉ có các âm thanh tinh vi do sự sáng tạo
chân thành của lòng Vô Ngã mới đưa ta trở về quê hương của linh hồn.
Muốn sáng tạo các loại nhạc này, con người cần phải để cho Chân Ngã sáng
chói, cần trau dồi cho tâm hồn tĩnh lặng để hòa đồng với vũ trụ. Vì âm
thanh của vũ trụ lúc nào cũng vang lừng cho những người thức tỉnh, người
biết thưởng thức, biết yêu cái đẹp, biết nghe những huyền âm cao cả
trong yên tĩnh vô biên. Hãy yên lặng, các ông sẽ học hỏi được nhiều điều
mới lạ. Hãy cố gắng nhìn mọi vật như một thực tại, các ông sẽ sáng tạo;
và khi sống trong tâm thức sáng tạo, các ông đều là những nghệ sĩ,
những người biết yêu cái đẹp, biết rung động với Chân, Thiện, Mỹ.
Sau đó, chúng tôi tìm đến bác sĩ Bandyo, cựu giám đốc bệnh viện
Calcutta, một giáo sư đại học nổi tiếng về khoa giải phẫu. Ông là một
nhà bác học của Ấn Độ, từng được đề cử giải thưởng Nobel về y học. Sau
một biến cố, ông từ chức, lui về ẩn cư tại một làng nhỏ gần Rishikesh để
săn sóc sức khỏe cho dân chúng tại đây. Ông là người mà thương gia
Keysmakers ca tụng và hết sức giới thiệu, nên phái đoàn tìm đến gặp.
Sau vài câu chuyện xã giao, giáo sư Mortimer lên tiếng:
- Chúng tôi nghe nói ông đã từ chức trong trường hợp hết sức đặc biệt.
Thương gia Keysmakers dặn chúng tôi nên hỏi ông về việc này. Xin ông vui
lòng cho biết lý do.
Bác sĩ Bandyo im lặng một lúc và trả lời:
- Đây là một câu chuyện đáng lý không bao giờ tôi nói cho ai biết,
nhưng vì có lời giới thiệu của Keysmakers, nên tôi sẵn sàng. Như các ông
biết, tôi là một người trọn đời hiến mình cho khoa học. Tôi không biết
gì về Yoga cũng như không hề tin tưởng các sự kiện vô hình, huyền bí, mà
chỉ tin những gì khoa học có thể chứng minh một cách rõ ràng thôi. Là
một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh tật miền nhiệt đới, tôi có thói quen
là rất thích nghiên cứu các chứng bệnh lạ lùng, khó chữa. Tôi đã điều
trị hơn 100 trường hợp lạ lùng mà bác sĩ khác đã bó tay. Tôi ghi nhận
rất kỹ triệu chứng bệnh lý cũng như phương pháp chữa trị và viết vài tài
liệu y học để giảng dạy trong các trường y khoa thế giới. Tôi đã nhiều
lần đi diễn thuyết về bệnh miền nhiệt đới, và được đề nghị trao giải
thưởng Nobel. Dĩ nhiên đó là một vinh dự lớn cho cá nhân tôi và cho cả
Ấn Độ. Một hôm, người ta đưa vào bệnh viện một cô bé chừng mười ba, mười
bốn tuổi gì đó. Cô bé mắc một chứng bệnh hết sức lạ lùng, chưa từng
nghe nói đến. Tôi rất thích thú, dành trọn thời gian nghiên cứu căn bệnh
này. Một hội đồng y khoa gồm các bác sĩ danh tiếng nhất được thành lập
để nghiên cứu. Suốt mấy tháng liền chúng tôi ra công chữa trị nhưng tình
trạng của bệnh nhân vẫn không thuyên giảm. Cuối cùng thì mọi người đành
bó tay. Tôi tuyệt vọng ngồi cạnh bệnh nhân, chờ em bé trút hơi thở cuối
cùng. Chưa bao giờ tôi thấy mình bất lực trước sự sống chết vô thường
như vậy. Bất chợt trong giây phút đó, tôi bỗng ý thức một điều lạ lùng
là có sự hiện diện của một bầu không khí tươi mát và êm ái không thể tả.
Khắp phòng bỗng rực rỡ một màu sắc chói sáng và tôi thấy một người đàn
bà hiện ra ngay bên cạnh giường cô bé. Thân thể ngài sáng chói hào quang
như dòng nước lấp lánh dưới ánh mặt trời. Trong giây phút đó, tôi bỗng
nhận thức ra ngài là Đức Mẹ thế gian. Ngài mang nhiều danh hiệu khác
nhau như Đức Mẹ Maria của Thiên Chúa giáo, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát của
Phật giáo, đức Avalokiteshvara của Ấn giáo. Ngài thuộc ngôi hai của
Thượng đế và biểu hiệu cho lòng từ bi, bác ái, luôn luôn đáp lại những
lời cầu cứu của chúng sinh. Trong giây phút đó, lòng tôi bỗng hoàn toàn
thay đổi. Tôi quỳ sụp xuống đất mặc dù suốt đời tôi chưa bao giờ biết
cầu nguyện là gì. Tôi cầu xin với tất cả lòng thành kính, xin Mẹ hãy cứu
chữa cho bệnh nhân. Tôi phát nguyện trọn đời tôn vinh hoạt động của Mẹ
và theo người vĩnh viễn.
Bác sĩ Bandyo im lặng như ôn lại quá khứ. Giáo sư Mortimer sốt ruột:
- Rồi sao nữa, cô bé đó ra sao?
- Các bạn mến, còn sao nữa, khi Đức Mẹ hành động thì có bệnh gì mà
không khỏi. Ngày hôm sau, cả bệnh viện xôn xao vì tôi đã chữa khỏi bệnh
cho cô bé. Tất cả bạn hữu xúm vào trách tôi đã tìm ra cách chữa nhưng
giấu kỹ, chờ mọi người bó tay rồi mới trổ tài. Trường Y khoa yêu cầu tôi
công bố phương pháp chữa trị, và đòi đặt tên tôi cho căn bệnh đó. Họ
tin rằng với phát minh này, chắc chắn giải Nobel sẽ về tay tôi. Các công
ty thuốc cũng ồn ào đòi tôi công bố loại thần dược. Chẳng những là công
ty xứ Ấn, mà ngay các công ty ngoại quốc cũng nhất định đòi mua trọn
bản quyền. Dĩ nhiên tôi không thể trả lời và dù có nói cũng không ai
tin. Hội đồng Y khoa cực kỳ giận dữ, tin rằng tôi giấu nghề; các bạn
thân cũng nhất định chất vấn cho kỳ được phương pháp chữa trị, và kịch
liệt công kích thái độ bất hợp tác của tôi. Bộ trưởng Y tế tiếp xúc với
tôi và cho biết có mười bác sĩ khắp thế giới được đề nghị lãnh giải
Nobel nhưng chỉ một người trúng giải. Nếu phát minh của tôi được công bố
thì chắc chắn tôi sẽ lãnh giải này. Tôi trả lời rằng chính Đức Mẹ hiện
ra và chữa cho bệnh nhân. Tất cả đều cho rằng tôi điên. Sau cùng, giải
Nobel năm đó được trao tặng cho một bác sĩ ở quốc gia khác. Hội đồng Y
khoa Ấn Độ vô cùng tức giận, đòi trục xuất tôi. Các bạn đồng nghiệp cũng
xa lánh và báo chí xúm vào chỉ trích tôi như một “thầy phù thủy”. Các
ông thử thưởng tượng, đang là một bác sĩ danh giá nhất xứ, tôi bỗng trở
thành một “lang băm hạ cấp”? Lúc đó tôi hiểu thế nào là vô thường. Tôi
không biết phải làm gì hơn là cầu nguyện Đức Mẹ giúp cho tôi đủ can đảm
để chịu đựng sự bất hạnh này. Tất cả mọi người đều nguyền rủa, chế giễu,
chỉ có một người duy nhất tin ở tôi, đó là thương gia Keysmakers. Ông
này dùng thế lực bênh vực cho tôi, làm áp lực yêu cầu Hội đồng Y khoa
phải phục hồi danh dự cho một bác sĩ bị vu cáo oan ức. Nhờ ông tung tiền
mua chuộc báo chí nên dư luận lắng dịu dần, và rồi người ta không còn
chú ý đến tôi nữa. Trong suốt thời gian khủng hoảng, tôi hết lòng cầu
nguyện Đức Mẹ vì tin rằng sự kiện này ắt phải có lý do. Trong một buổi
cầu nguyện, câu trả lời đã đến với tôi qua một linh ảnh. Trong một tiền
kiếp xa xôi, tôi là một y sĩ rất có tài nhưng tôi đã phủ nhận các quyền
năng huyền bí và chê bai những kẻ có đức tin hay cầu nguyện Đức Mẹ. Và
các sự kiện đó là hậu quả mà tôi phải trả ngày nay… Kể từ hôm nhìn thấy
Đức Mẹ, một sự thay đổi lớn đã diễn ra trong tâm hồn tôi. Từ nhỏ tôi
không hề biết đến tôn giáo. Tôi hấp thụ nền giáo dục phương Tây nên tin
tưởng tuyệt đối ở khoa học. Sự chứng kiến phép lạ đã thay đổi tất cả.
Như người mù bỗng sáng mắt, tâm hồn tôi hoàn toàn khác trước, tôi thấy
thanh thản vô cùng và đủ sức chịu đựng sự chế giễu của mọi người. Tôi
dành trọn thời giờ để cầu nguyện và phát nguyện đời đời kiếp kiếp theo
chân Đức Mẹ, cứu giúp tất cả chúng sanh. Một hôm trong lúc cầu nguyện,
ngài bỗng hiện ra mỉm cười, và từ đó tôi thấy mình ngụp lặn trong một
thế giới mới lạ. Tôi ý thức được những điều mà từ trước không bao giờ
nghĩ đến, tôi chứng kiến rõ ràng các cõi giới khác cũng như sự hoạt
động, tiến hóa không ngừng của muôn loài. Nói một cách giản dị hơn, khả
năng Thần nhãn của tôi bỗng khai mở. Từ đó, tôi quan sát, học hỏi các
cõi giới của Thiên thần.
Diễn tả cõi giới vô hình bằng lời lẽ thông thường, không thêm bớt là
điều rất khó vì lời nói chỉ có thể diễn tả những gì hữu hình. Diễn tả
những điều không thể diễn tả, dĩ nhiên rất vụng về, nhưng bác sĩ Bandyo
đã lưu loát, hoạt bát diễn tả thế giới này như một sự kiện khoa học và
hiển nhiên.
Bác sĩ Bandyo nhìn mọi người, rồi thản nhiên:
- Có lẽ các bạn không tin tưởng lắm, điều này không quan trọng. Tin hay
không là quyền của các bạn. Tôi chỉ muốn chia sẻ với các bạn kinh
nghiệm tâm linh này thôi. Nhờ khai mở Thần nhãn, tôi biết chung quanh
chúng ta có một thế giới vô hình, rộng lớn và có những sinh vật khác
sinh sống. Sở dĩ tôi gọi là vô hình vì mắt thường không thể nhìn thấy
được, nhưng một ngày nào đó khoa học sẽ chứng minh được thế giới này.
Các sinh vật vô hình thường được chúng ta gọi bằng những danh từ như Ma,
Quỷ, Tinh linh (entities), v.v. Vì không có một kiến thức rõ rệt về các
sinh vật này, chúng ta đã gán ghép cho chúng nhiều điều không đúng.
Thật ra, các sinh vật này cũng có thứ xấu, thứ tốt, cũng như loài người
vậy. Một trong các kiểu sinh vật này hợp tác chặt chẽ với Đức Mẹ trong
các công việc của ngài. Danh từ đúng đắn nhất để chỉ kiểu sinh vật này
có lẽ là Thiên thần (Deva). Có nhiều loại thiên thần, mỗi loại phụ trách
một công việc riêng. Vì lý do nghề nghiệp, tôi thường tiếp xúc với các
thiên thần chăm lo sức khỏe. Tôi xin thuật lại thế giới này cho các bạn…
Các thiên thần lo về sức khỏe thường liên lạc chặt chẽ với những người
có trách nhiệm trong việc chăm sóc, chữa bệnh. Điển hình là các bác sĩ, y
tá. Một y sĩ có lương tâm chức nghiệp, làm việc để giúp đỡ người khác,
luôn luôn được một vị thiên thần hộ mạng. Vị này thường theo dõi, bao
trùm chung quanh y sĩ bằng một hào quang sáng rõ và tác động vào trực
giác ông này khi điều trị bệnh nhân. Vị thiên thần trấn tĩnh y sĩ và
không ngớt phóng ra các hào quang mịn màng như tơ để chuyển sinh khí đến
người bệnh. Công việc của vị thiên thần hình như là dung hòa, pha trộn
các sinh lực vô hình trong cõi siêu nhiên và sử dụng tư tưởng để biến nó
thành các sợi tơ ánh sáng tuôn trào vào bệnh nhân. Một bác sĩ tận tâm
sẽ có các rung động cộng hưởng với ảnh hưởng này một cách vô hình, tự
nhiên thu hút các từ điện tinh vi này vào mình, để nó toát ra ở mười đầu
ngón tay, và có thể hàn gắn vết thương một cách dễ dàng, mầu nhiệm.
Người ta không thể giải thích tại sao một bác sĩ này lại giỏi hơn một
bác sĩ kia, mặc dù họ cùng hấp thụ một nền giáo dục như nhau? Và một bác
sĩ giỏi, ta gọi là bác sĩ “mát tay”, nhưng thật ra đó là do tư tưởng vị
y sĩ thanh cao, rung động với các luồng thần lực vũ trụ và trở thành
một trung tâm lưu chuyển các sinh lực này đến bệnh nhân. Mặc dù y học tự
hào đã chữa được nhiều thứ bệnh, nhưng thực ra trên địa hạt siêu hình
còn nhiều vấn đề mà y học phải bó tay. Một bác sĩ có thể ví như một công
cụ của Thượng đế cứu giúp chúng sinh; nhưng nếu họ không ý thức điều
này mà có những hành động bất nhân thì họ sẽ chịu các hậu quả rất nặng.
Lẽ dĩ nhiên, ân phước dồi dào không thể đến với họ, và vì thế các ảnh
hưởng bất hảo sẽ kéo đến, ảnh hưởng đến đời sống, chức nghiệp, khả năng
của họ. Nhờ có Thần nhãn, tôi thấy các bác sĩ chuyên phá thai chẳng hạn,
lúc nào quanh ông ta cũng có các oan hồn bu kín. Một bác sĩ bất cẩn
cũng thế, ông đã lạm dụng quyền năng Thượng đế ban cho, làm thương tổn
đến bệnh nhân thì chắc chắn sẽ gặp những điều vô cùng bất hạnh. Từ ngàn
xưa, người ta đã biết điều này, nên mới đặt ra lời thề của Hippocrates,
đến nay không mấy ai để ý đến chi tiết này. Họ hành nghề như tất cả
những nghề nghiệp thông thường khác, không ý thức được chức phận thiêng
liêng của mình. Là một bác sĩ chuyên về giải phẫu, tôi có thể lấy kinh
nghiệm của mình ra nói: trong cuộc giải phẫu, mạng sống của bệnh nhân
hoàn toàn nằm trong tay bác sĩ và các thiên thần hộ mạng. Một sơ ý, bất
cẩn nhỏ cũng có thể gây những hậu quả đáng tiếc. Do đó, việc hành nghề y
là một chức phận thiêng liêng, đòi hỏi một lương tâm, một lòng bác ái
và hy sinh lớn lao chứ không thể coi như một nghề nghiệp kiếm sống thông
thường.
- Xin ông nói thêm về thế giới thiên thần, ông đã thấy những gì?
- Vì nghề nghiệp, tôi thường quan sát các hoạt động của thiên thần
trong bệnh viện, thí dụ như phòng hộ sinh, nơi các sản phụ chờ giây phút
lâm bồn. Nơi đây có một không khí bình an, mát mẻ do các thiên thần tạo
ra để chào đón linh hồn nhập thế. Đối với cõi vô hình, giờ phút này có
tính cách vô cùng trang nghiêm, như một cuộc lễ. Vị thiên thần bao trùm
bác sĩ, y tá trong hào quang và không ngớt chuyển sinh khí đến người mẹ
để giúp bà trong lúc đau đớn. Mọi nghi thức diễn ra thật chính xác, rõ
ràng cho đến khi đứa bé lọt lòng. Khi linh hồn tái sinh, nó có cảm giác
bỡ ngỡ như người mê mới tỉnh; linh hồn thấy ngộp thở, tối tăm, nặng nề.
Nó cần được trấn an nên khi tiếng khóc chào đời vừa phát ra thì trong
cõi vô hình, một ảnh hưởng thanh thoát cũng rung động vào tâm thức đứa
bé khiến nó bình tĩnh hơn. Vị thiên thần trông coi buổi lễ có một khuôn
mặt uy nghi, tâm thức vị này luôn luôn kết nối chặt chẽ với trái tim Đức
Mẹ. Một niềm ưu ái đối với sản phụ tỏa ra từ khuôn mặt của vị thiên
thần, và chuyển đến sản phụ dưới hình thức một ân huệ để tán dương chức
phận sinh sản cao cả của bà. Lúc đó, tâm thức sản phụ được nâng lên cao
hòa với ân phước Đức Mẹ…
Bác sĩ Bandyo ngưng nói một lúc, rồi thong thả tiếp:
- Các ông đều thuộc phái nam, nên không thể hiểu tâm trạng người mẹ lúc
sinh con. Dù hoàn cảnh có khó khăn, đau đớn đến đâu, khi vừa nghe con
khóc, người mẹ nào cũng thấy sung sướng vô biên vì khi đó tâm thức họ
đang hòa hợp với ân phước Đức Mẹ. Trong tim họ đang phản chiếu sự hiện
diện linh động của ngài, chói ngời lòng bác ái, thương yêu vô tả. Vào
giờ phút đó, chính vị thiên thần trông coi buổi lễ cũng nhận được một
luồng hào quang. Trong ánh sáng đó, người ta thấy một cái gì vinh quang,
tươi đẹp, một nguồn an lạc tuyệt vời, tuôn trào đến sản phụ và hài nhi.
Khi đó vị thiên thần hộ mạng bắt đầu làm công việc giúp đỡ đứa bé, giúp
nó điều hòa sự sống đang bị xáo trộn. Ngài phát ra các từ điện bao
quanh đứa nhỏ, giống như các bọt xà phòng để bảo vệ nó chống lại sự ồn
ào bên ngoài. Nhờ đó, đứa bé sẽ thiếp đi trong giây lát, lúc đó vị thiên
thần chú tâm điều hòa tâm thức đứa nhỏ để nó thích hợp với hoàn cảnh
mới.
Bác sĩ Bandyo im lặng như đắm chìm vào một tư tưởng nào đó, sau cùng ông nói:
- Đối với một đứa bé vừa ra đời, khoa học chỉ lo cho chúng ăn uống,
dinh dưỡng đầy đủ mà thôi, chứ không hiểu chúng cần một yếu tố vô cùng
quan trọng đó là tình thương. Khi thể xác được chăm sóc thế nào thì các
thể khác cũng phải được chăm lo y như vậy; và món ăn cần thiết của các
thể này là tình thương. Thiếu tình thương, đứa trẻ khó lòng sống sót vì
nhu cầu tình cảm đôi lúc còn quan trọng hơn các nhu cầu khác. Tình
thương là một yếu tố dinh dưỡng cần thiết để trẻ em nẩy nở tâm lý, tinh
thần; và chính vì cha mẹ không lo đủ nhu cầu này mà trẻ chậm lớn, thiếu
phát triển. Các bệnh tâm lý, thần kinh đều trực tiếp phát nguồn từ đây.
Lý do này cũng giản dị thôi, đứa bé hình dung vũ trụ theo lối cư xử của
cha mẹ đối với nó. Tùy theo nó được yêu hay ghét mà cuộc đời hiện ra
đáng ghét hay đáng yêu. Từ lúc sơ sinh, nó nhận được tiềm lực yêu thương
từ Đức Mẹ, và nếu được yêu thương, năng lực này sẽ phát động mạnh mẽ và
nó sẽ trở thành một trung tâm ban rải tình thương. Trái lại, nếu nó bị
hất hủi, nó sẽ trở nên hung hãn vì mầm yêu thương đã bị dập tắt. Bổn
phận làm cha mẹ là vô cùng thiêng liêng, một trách nhiệm vô cùng quan
trọng, hơn là việc chỉ lo cho nó đủ ăn đủ mặc. Tình thương là một năng
lực sáng tạo khiến người thương và kẻ được thương trở nên "giàu có".
Trên thế gian này, tình thương là một thứ mà ai cũng có thể cho đi mà
không sợ phung phí. Một tình thương chân thật có giá trị giao hòa, không
gì có thể thay thế được. Nó không bao giờ gây hư hại, mà chỉ tạo ảnh
hưởng tốt lành. Tình thương là một sinh lực có thể chữa trị tất cả mọi
bệnh tật và đây là điều khoa học cần chú trọng đến.
Bác sĩ Bandyo dẫn chứng:
- Sách “Journal of Medecine” có đề cập đến cuộc nghiên cứu của bác sĩ
René Spitz, thuộc đại học New York. Hai nhóm trẻ sơ sinh được nuôi dưỡng
khác nhau. Nhóm thứ nhất được nuôi dưỡng bởi chính cha mẹ chúng; nhóm
thứ hai được giao cho các cô y tá. Tất cả đều được nuôi nấng, ăn uống
như nhau, chỉ khác ở sự yêu thương. Chỉ vài tháng, nhóm trẻ thứ nhất
phát triển mạnh mẽ, lên cân, khỏe mạnh, trong khi nhóm thứ hai chậm ăn,
chậm lớn và đau ốm lung tung. Bác sĩ Spitz kết luận rằng trẻ con cần
tình thương để có thể phát triển bình thường. Khoa học thực nghiệm đã
chứng minh như thế, nhưng bậc làm cha mẹ đâu mấy ai dành nhiều thời giờ
cho các con? Họ chỉ lo cho chúng ăn mặc đầy đủ là cảm thấy làm tròn bổn
phận rồi. Cũng vì thế, xã hội Âu Mỹ tuy vật chất đầy đủ, nền giáo dục
rất cao mà lại phát sinh đủ các hiện tượng tội ác, thần kinh, vi phạm
luật pháp một cách kỳ dị, khác các xứ chậm tiến. Tại sao những nhà thông
thái không đặt câu hỏi : Phải chăng bậc cha mẹ đã không dành đủ thời
giờ cho con trẻ để chúng phát triển bình thường?
Phái đoàn im lặng. Họ thấy bác sĩ Bandyo quả rất có lý trong vấn đề này. Giáo sư Mortimer lên tiếng:
- Hãy trở lại vấn đề các thiên thần, họ còn ảnh hưởng gì đến đời sống con người nữa không?
- Các thiên thần ít khi nào can thiệp vào đời sống con người. Thật ra,
họ vô cùng bận rộn với các sinh hoạt riêng biệt. Thế giới của họ cấu tạo
bằng các nguyên tử thanh, nhẹ, có sức rung động rất nhanh, nên họ không
thích dính dáng vào thế giới hữu hình, vốn có những rung động thô kệch.
Điều này có thể ví như các ông đang sống ở một nơi mát mẻ, sạch sẽ,
không lý nào lại chui vào chỗ hôi hám, nóng bức làm gì.
Giáo sư Allen tò mò:
- Ông có thể sử dụng khả năng Thần nhãn vào các việc khác như tìm hiểu về thế giới bên kia cửa tử được không?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười:
- Bạn mến, trước hết tôi xin xác định rằng chết không phải là hết, mà
chỉ là một giai đoạn di chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Con
người chỉ rời bỏ thể xác này thôi. Sự chết không có gì đáng sợ như
người ta vẫn nghĩ.
- Như thế người chết có thấy chúng ta không?
- Họ nhìn thấy chúng ta qua thể vía mà thôi. Do đó, họ biết được tình
cảm hoặc ý nghĩ, cảm xúc của ta mặc dù họ không còn nghe được lời nói,
âm thanh của cõi trần nữa.
- Như vậy họ vẫn ở gần người sống?
- Lúc mới từ trần, còn quyến luyến, họ vẫn ở nguyên chốn cũ, gần nhà
cửa, gia đình, những người thân. Theo thời gian, họ ý thức được cõi giới
mới rồi siêu thoát, nghĩa là hòa nhập với cõi giới mới, không quanh
quẩn ở cõi trần nữa. Sự quyến luyến rất có hại cho người chết, nhất là
những người chết bất đắc kỳ tử. Họ còn nhiều dục vọng, ham muốn, nên cứ
quanh quẩn ở cõi trần, không chịu đi đâu hết.
- Số phận trẻ em khi chết ra sao?
- Chúng ít ham muốn, dục vọng, nên thảnh thơi, tự tại hơn. Lúc đầu
chúng vẫn quanh quẩn, nô đùa quanh cha mẹ, và không ý thức được về sự
chết của mình. Chúng tái sinh rất mau lẹ và thường hay trở lại gia đình
cũ vì các nhân duyên từ trước. Thí dụ như một bà mẹ sảy thai do sự bất
cẩn của bác sĩ chẳng hạn. Đứa bé vẫn tiếp tục quanh quẩn bên mẹ chúng và
sẽ đầu thai trở lại khi có dịp. Trong trường hợp phá thai thì lại khác,
đứa bé không hiểu tại sao mẹ nó lại ghét nó và làm hại nó như thế? Nó
quanh quẩn gần đó một cách đáng thương và tìm cách hỏi mẹ nhưng dĩ nhiên
là không tìm được câu trả lời.
- Người châu Á thường tin rằng các vong linh thân nhân có thể giúp đỡ
người sống và có các quyền năng đặc biệt, vì vậy, có tục lệ thờ cúng tổ
tiên. Theo ông thì điều này ra sao?
Bác sĩ Bandyo cười lớn:
Bác sĩ Bandyo cười lớn:
- Theo sự hiểu biết của tôi, con người khi sống ra sao thì chết cũng
thế thôi. Không có gì thay đổi hết! Họ không thông minh hơn, hiểu biết
hơn. Hơn nữa, âm dương cách trở, họ khó có thể giúp gì cho người cõi
trần. Dĩ nhiên, họ rất muốn tiếp xúc với thân nhân còn sống, nhưng người
sống đâu ý thức gì đến sự hiện diện của họ. Đó cũng là lý do người chết
rất đau khổ. Hơn nữa, người chết đọc được tư tưởng người sống qua thể
vía và đôi lúc biết rõ sự thật còn làm họ đau khổ hơn nữa. Thử tưởng
tượng cha mẹ đọc được tư tưởng đứa con mừng rỡ khi cha mẹ chết vì được
hưởng gia tài. Người chồng mừng rỡ vì vợ chết rồi, từ nay tha hồ tự do,
muốn làm gì thì làm. Người chồng thấy vợ mừng chồng chết vì đã trút được
gánh nặng. Các ông nên biết, người đau khổ nhiều, phần lớn là người
chết, chứ không phải người sống. Do đó, họ cần được an ủi, chỉ dẫn.
- Nhưng làm sao an ủi họ được? Ông vừa nói âm dương cách trở kia mà?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười:
- Có nhiều cách giúp đỡ người chết, một cách tiêu cực và một cách tích
cực. Đối với thân nhân người chết, họ có thể làm một cách tích cực như
giúp cho người chết thấy thoải mái, nhẹ nhàng để họ mau siêu thoát. Việc
thứ nhất là nên tránh than khóc kêu gào, để người chết khỏi xúc động,
thương tiếc và quyến luyến, khó rời cõi trần được. Việc thứ hai là tránh
cỗ bàn, mổ gà, làm thịt vì như thế chỉ kêu gọi các vong linh bất hảo,
các cô hồn đói khát kéo đến đầy nhà gây ảnh hưởng xấu đến người chết.
Nên cầu nguyện trong suốt 49 ngày liền, vì đây là lúc người chết đang ở
trong trạng thái quan trọng, sự cầu nguyện khiến đầu óc họ trở nên sáng
suốt, hiểu biết, dễ siêu thoát. Nên thiêu xác thay vì chôn cất, để người
chết không thấy đau khổ khi nhìn thể xác mình hư thúi, bị dòi bọ đục
khoét. Khi không còn lưu luyến thể xác, họ sẽ dễ siêu thoát hơn. Tại Ấn
Độ, tất cả người chết đều được hỏa táng, đó là phong tục rất tốt, vì
không còn các vong hồn quanh quẩn ở các nghĩa địa nữa. Việc tích cực
giúp đỡ thường do các tu sĩ đảm trách. Họ xuất vía sang cõi chết để an
ủi, hướng dẫn vong linh. Tu sĩ đảm nhiệm việc này phải phát nguyện phụng
sự hoàn toàn, phải trải qua một thời gian huấn luyện để giữ tâm trí
luôn sáng suốt, vì cõi chết có nhiều cảnh ghê rợn với các sinh vật lạ
lùng, một người thiếu kiến thức, hiểu biết, có thể kinh hoàng ghê sợ.
Chỉ khi nào có thể tự chủ hoàn toàn, không bị ảnh hưởng bên ngoài làm
dao động, tâm hồn luôn yên tĩnh, không lo âu sợ sệt và có một tình
thương hoàn toàn rộng rãi đến tất cả, không còn phân biệt, thì sự giúp
đỡ mới kín đáo, vô tư và có hiệu quả. Các ông nên nhớ, qua cõi này, sinh
vật có thể đọc được tư tưởng lẫn nhau nên một lời nói không chân thật
cũng có thể mang đến hậu quả không thể lường được.
- Tại sao ông biết rõ như thế?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười:
- Tại vì tôi đang được huấn luyện để làm việc này. Sự khai mở Thần nhãn
giúp tôi thu thập kiến thức về cõi giới vô hình. Từ đó, tôi nhận thức
sứ mạng Đức Mẹ đã giao cho tôi. Tôi đã phát nguyện dành trọn đời để thực
hiện thiên ý. Đó là lý do tôi từ bỏ đời sống quay cuồng của đô thị để
đến đây. Ban ngày, tôi là một bác sĩ chăm lo săn sóc những người bệnh.
Thời giờ còn lại tôi phục vụ Đức Mẹ qua các công việc ngài giao phó. Các
bạn thân mến, trọn cuộc đời, chưa lúc nào tôi sống thật trọn vẹn như
bây giờ.
Nhận xét
Đăng nhận xét