Hành trình về phương Đông | Chương 4: Trên đường thiên lý
Cuộc gặp gỡ Brahmananda và Sudeih Babu đã thay đổi tất cả. Cho đến lúc
đó, phái đoàn mới công nhận rằng đằng sau khu rừng mê tín dị đoan, còn
có những chân lý cao siêu đáng học hỏi và nghiên cứu. Sự hiện diện của
một vị Chân sư bí mật gửi thông điệp bằng tư tưởng cho Brahmananda và
Sudeih Babu, làm phái đoàn phấn khởi, tin tưởng rằng cuộc khảo cứu sẽ
còn vượt xa hơn điều họ dự tính.
Cuộc tiếp xúc với Sudeih Babu đã khiến mọi người bắt đầu cởi bỏ các
thành kiến dị biệt, các quan niệm bảo thủ và lòng tự hào của người Âu để
bắt đầu quan sát, học hỏi thêm về nền minh triết bí truyền của Á châu.
Phái đoàn bắt đầu cuộc hành trình nhắm hướng Rishkesh trực chỉ. Lúc
đầu, đường xá còn tốt nên việc di chuyển còn nhanh chóng, nhưng về sau
có những đoạn đường bị ngắt quãng, phái đoàn phải dùng lừa, ngựa hoặc
đôi khi phải đi bộ qua các eo núi. Sự kiện một nhóm người Âu di chuyển
trên những con đường độc đáo, hẻo lánh là một điều chưa hề xảy ra. Các
sĩ quan quân lực Hoàng gia đã hết sức ngăn cản vì lý do an ninh. Mặc dù
Ấn Độ là thuộc địa của Anh, nhưng nhiều địa phương vẫn không hợp tác với
chính quyền. Việc di chuyển đòi hỏi sự hộ tống của lực lượng quân đội
vũ trang đầy đủ. Có nhiều vùng, ngay cả dân địa phương cũng ít dám qua
lại, vì có những đảng cướp hoạt động mạnh mẽ. Để đề phòng, phái đoàn đã
vũ trang cẩn thận, nhưng trong suốt thời gian di chuyển không hề có một
sự kiện đáng tiếc nào xảy ra. Toàn thể mọi người có cảm tưởng như được
che chở bởi một quyền năng mạnh mẽ vô hình.
Trên đường, phái đoàn đi qua một đền thờ của đạo Jain. Căn bản của tôn
giáo này xây dựng trên chủ trương mở rộng lòng từ bi (Ahimsa). Tín đồ
đạo Jain thực hành lý tưởng Ahimsa triệt để, đôi khi có vẻ quá khích.
Đạo Jain được thành lập hơn 2.000 năm, do đức Mahavira, một vị hoàng tử
đã từ bỏ cung vàng điện ngọc vào rừng tu hành và đắc đạo. Ngay khi bước
chân vào đền, người ta đã thấy ngay pho tượng đức Mahavira ngồi thiền,
trên trán có gắn một viên kim cương lớn. Trước khi vào đây, du khách
phải cởi thắt lưng, giày dép, những vật gì làm bằng da thú, sừng, ngà
voi, v.v. - tất cả các vật do sự giết chóc mà ra. Sở dĩ phải làm thế, vì
giáo lý Ahimsa dạy các tín đồ phái này không được sát sinh, ăn thịt cá,
mà ngay trong nhà cũng không được chứa một thứ gì của sự giết chóc. Các
giáo sĩ đạo Jain mặc toàn đồ trắng, trên mặt bịt một miếng vải thưa chỉ
chừa đôi mắt. Họ làm thế để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi,
miệng. Vì lòng từ bi (Ahimsa) bao trùm tất cả, lỡ có sâu bọ nào vô phúc
bay lọt vào rồi nằm lì trong đó thì phạm tội sát sinh. Không những thế,
các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập thất một lần trong suốt ba tháng
hè, vì thời gian đó côn trùng sinh sản nhiều, nếu di chuyển sợ dẫm lên
chúng.
Đối với người Âu, việc thực hành Ahimsa có vẻ quá khích, và vô lý,
nhưng phần đông phái này thực hành giới luật rất nghiêm chỉnh. Họ tin
rằng nếu các giới luật mà không giữ được thì không hy vọng gì đi xa hơn
trên đường tu học.
Một số giáo sĩ Jain còn “quá khích” hơn nữa. Sau một thời gian tu ở
trong đền, họ phát nguyện vào rừng tu và sống lõa thể. Họ chỉ uống nước
suối, ăn trái cây, và dành trọn thời giờ thiền định. Họ quan niệm rằng
khi còn ăn cơm gạo, mặc y phục là còn mang nợ xã hội. Còn hưởng những
vật dâng cúng của tín đồ là còn mang nợ loài người. Khi tu là phải ly
khai với đời, từ bỏ tất cả, không bận tâm đến bất cứ chuyện gì của thế
gian như của cải vật chất và ngay cả mảnh vải che thân. Đạo Jain cho
rằng xuất gia là phải tuyệt tất cả ý niệm sở hữu, vì sở hữu bất cứ gì
cũng đều là ràng buộc, níu kéo đưa đến sự quyến luyến, gây chướng ngại
cho việc tu hành giải thoát. Ngay cả các đền thờ đẹp đẽ cũng phải từ bỏ
để vào rừng lấy đất làm giường, lấy trời làm nhà và thú rừng làm bạn. Họ
dành tất cả thời giờ để thiền định về ý niệm mở rộng lòng thương đến
muôn loài. Nhiều tu sĩ ngồi thiền mà thú rừng kéo đến quấn quít chung
quanh, không hề sợ hãi.
Các học giả người Âu đã gọi tôn giáo này là phái “Lõa thể” vì quan niệm
từ bỏ triệt để này. Điều đáng tiếc là từ ngữ “Lõa thể” thường bị đồng
hóa với những việc xấu xa, mọi rợ, thiếu văn minh. Khi người Anh đến cai
trị xứ này, rất nhiều tu sĩ đạo Jain đã bị bắt giam vì tội xâm phạm
thuần phong mỹ tục, mặc dù họ chỉ sống trong rừng không tiếp xúc với xã
hội.
Khi gác bỏ các thành kiến dị biệt, phong tục và tập quán, phái đoàn
thấy đạo Jain chủ trương rất thực tế. Giáo phái này tin tưởng rằng sức
mạnh của tình thương có thể san bằng mọi khó khăn, trở ngại. Tuy nhiên,
tình thương phải hết sức tuyệt đối. Tình thương không giới hạn vào một
hạng người nào riêng biệt, mà phải được ban rải đồng đều cho tất cả,
không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tín ngưỡng. Đây là một cải cách
hết sức lớn lao vì phong tục Ấn Độ vốn rất thiên vị, và chủ trương phân
biệt giai cấp. Tín đồ đạo Jain tin rằng, con người dù mạnh hay yếu, sang
hay hèn, trung lưu hay hay hạ lưu, bình dân hay vua chúa, đều thụ hưởng
lòng thương như nhau. Lòng thương chẳng những phải bao la, mà còn nồng
nàn như tình mẹ con, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm. Lòng thương
phải chân thành, thâm thúy phát ra từ đáy lòng, không thể giả dối hay vị
nể một hoàn cảnh nào. Sau khi trải tình thương khắp đồng loại, còn phải
trải rộng đến loài vật, từ con voi to lớn đến các côn trùng nhỏ bé. Do
đó, họ tránh sát sinh đã đành mà còn không sử dụng bất cứ vật dụng nào
do sự giết chóc mang lại. Đạo Jain cho rằng chiến thắng kẻ thù bằng sức
mạnh là một thú tính cần loại trừ, và chinh phục bằng tình thương là
đường lối duy nhất để giải quyết mọi việc.
Đạo Jain có khá đông tín đồ, phát triển mạnh tại miền bắc Ấn Độ, nhưng
không lan tỏa đến các nơi khác vì gặp phải sức chống đối của Ấn Độ giáo
và Hồi giáo. Lịch sử Ấn Độ ghi nhận Hồi giáo đã tiêu diệt Phật giáo và
đạo Jain một cách hết sức dã man. Hơn nữa, quy tắc khắc khe của tôn giáo
này không mấy ai theo nổi, và các tu sĩ bịt mặt, lõa thể dễ bị người
đời ngộ nhận. Có lẽ vì vậy mà tôn giáo này chỉ phát triển ở các vùng hẻo
lánh miền sơn cước.
Ashmah là một làng nhỏ, nằm sát chân núi. Phái đoàn dừng chân ở đây một
thời gian cho lừa, ngựa nghỉ ngơi. Một lý do nữa là gần đó có một di
tích lịch sử quan trọng: Ngôi đền yên lặng.
Đó là một kiến trúc bằng đá trắng, xây cất hơn 4.000 năm nay. Trong đền
không có hình tượng gì mà chỉ là một căn phòng to lớn, trang nghiêm.
Bước vào ngôi đền yên tĩnh, tất cả mọi người đều thấy trong lòng bỗng
lắng xuống trong một cảm giác bình an khôn tả. Tục truyền, hoàng đế
Rapoor mang quân đi chinh phục các nước láng giềng, đã gặp một vị đạo sĩ
nơi đây. Đạo sĩ khuyên vua nên bỏ ý định chinh phục bằng sức mạnh, mà
chỉ nên lấy nhân nghĩa mà đối xử với người. Nhà vua nghe theo, ra lệnh
bãi binh, khuyến khích dân chúng sống theo đạo hạnh. Từ đó vương quốc
Rapoor được hưởng một nền thái bình, thịnh trị.
Thời gian trôi qua, đến nay chẳng còn mấy ai biết đến thời đại của
hoàng đế này, nhưng ngôi đền xây cất để kỷ niệm sự tỉnh ngộ của nhà vua
vẫn còn tồn tại. Khi bước chân vào đây, không ai được nói một lời nào mà
phải tuyệt đối giữ yên lặng. Lý do ngôi đền không có hình tượng gì là
để nói lên cái chân lý tuyệt đối vốn vô hình, vô tướng. Vị đạo sĩ giữ
đền đã giải thích cho phái đoàn.
- Đền yên lặng là nơi chốn của quyền năng, vì yên lặng đồng nghĩa với
quyền năng. Khi con người đạt đến chỗ im lặng trong tư tưởng thì họ đã
đến chỗ mà tất cả đều là sự hợp nhất với quyền năng thiêng liêng. Con
người có sức mạnh tư tưởng nhưng vì vô ý thức, họ đã để cho nó hao tán.
Qưyền năng hao tán là Động, còn tập trung là Tĩnh. Khi tập trung mọi sức
mạnh tư tưởng vào một trung tâm sinh lực duy nhất, con người tiếp xúc
với Thượng đế. Khi hợp nhất với đấng thiêng liêng, ta hợp nhất với mọi
quyền năng và đó là di sản tâm linh tối hậu. Phương pháp duy nhất để hòa
hợp với đấng thiêng liêng là tiếp xúc với ngài một cách ý thức, từ bỏ
ngoại cảnh để quay về với nội tâm, vì đấng thiêng liêng ẩn tàng trong
tâm con người. Khi con người từ bỏ ảo giác của kiêu mạn, bản ngã, nhận
thức sự vô minh, hèn kém của mình và sẵn sàng học hỏi, sửa đổi, đó là tu
thân. Người ta không thể dạy bảo điều gì cho những cá nhân kiêu căng tự
phụ, vì chỉ có người khiêm tốn mới thấy được chân lý. Đấng thiêng liêng
không nghe các lời cầu xin ồn ào lặp đi lặp lại, mà chỉ nghe những lời
cầu nguyện chân thành của những kẻ đến với ngài bằng trái tim, sùng kính
ngài bằng tâm hồn và sự im lặng. Kẻ nào tiếp xúc với ngài trong ầm thầm
sẽ nhận biết quyền năng của ngài do sự hiện thực hóa những điều họ đã
chân thành mong muốn.
- Nhưng nếu không cầu nguyện theo các sách vở, thánh kinh, làm sao tín đồ có thể hiểu biết về tôn giáo mà họ đang theo đuổi?
- Minh triết phát sinh từ sự yên lặng. Thượng đế không cần ta phải
tuyên dương ngài một cách ồn ào hay bằng một ngôn ngữ gì. Khi một tín đồ
thành tâm trong tĩnh lặng, người đó sẽ hòa hợp tư tưởng với ảnh hưởng
thiêng liêng; và ảnh hưởng này chỉ có thể nhận biết được khi lòng ta
vắng lặng. Khi tâm hồn hoàn toàn an tĩnh, ta có thể tự phân tích mình,
trau dồi phẩm hạnh và đón nhận những mặc khải từ cõi trên. Chỉ trong sự
vắng lặng, con người mới ý thức năng lực trong mình và chung quanh mình.
Chỉ trong yên lặng các quyền năng tiềm ẩn mới phát sinh và nẩy nở. Tâm
có an thì việc bên ngoài mới không vọng động, dục vọng mới chịu yên
tĩnh. Con người có thoát khỏi các ồn ào náo nhiệt bên ngoài thì mới đón
nhận được các hòa âm tuyệt diệu đến từ cõi vô biên. Con người cần khám
phá rằng hạnh phúc ở trong tâm mình. Hiện nay phần lớn đều tìm kiếm hạnh
phúc ở bên ngoài, nhưng ngoại cảnh chỉ đem lại các giải trí trong chốc
lát, thay vì hạnh phúc vô biên. Tất cả phương pháp tìm kiếm bên ngoài
đều vô vọng. Con người phải biết quay về nội tâm vì mọi hình tướng, nghi
thức đều là sự áp chế.
- Nhưng làm sao tìm thấy điều gì khi ngồi yên lặng?
- Con người sẽ dần dần ý thức được chính mình. Dĩ nhiên, điều này đòi
hỏi một thời gian. Họ sẽ tìm thấy ở mình một thứ hạnh phúc không lệ
thuộc ngoại vật, cũng không lệ thuộc tha nhân. Một tâm trạng giải thoát
không ai có thể cướp được, đó là tâm trạng “tôn giáo”, kết tinh bởi sự
nẩy nở, thăng hoa các ý thức sâu kín trong nội tâm. Con người sẽ tự mình
tìm thấy câu giải đáp khi họ ý thức được thực chất của chính mình và sự
ảnh hưởng cao cả của Thượng đế. Và khi đó, mọi sự tìm kiếm ở ngoại cảnh
sẽ chấm dứt.
- Những điều ông nói rất hay, nhưng nếu không có sách vở chỉ dẫn, làm sao con người biết đâu mà tìm để đạt đến trạng thái đó?
- Đa số người Âu chỉ quen hoạt động và ỷ lại vào một phương pháp, giáo
lý hướng dẫn cuộc đời. Do đó họ dễ bị hướng dẫn sai lạc, lầm lẫn. Phải
tự mình suy gẫm và tìm lấy con đường cho chính mình mới là phương pháp
đúng đắn. Con đường giải thoát đòi hỏi sự can đảm và nỗ lực cá nhân, vì
không đường nào giống đường nào. Lịch sử cho thấy có biết bao tôn giáo
rao truyền chân lý cực kỳ tốt đẹp, nhưng có mấy tín đồ nghiên cứu tường
tận? Đa số đều ỷ lại vào các giáo sĩ chỉ dẫn. Chính các giáo sĩ còn chưa
giải thoát được cho chính mình thì còn cứu độ cho ai nữa? Đó là lý do
hoàng đế Rapoor xây dựng ngôi đền yên lặng và trong đó không có một pho
tượng, một hình ảnh hay ngôn ngữ nào, để tránh đi vào con đường của các
tông phái Ấn giáo. Thượng đế ở khắp mọi nơi và tuyệt đối; ngôn ngữ, hình
ảnh không thể diễn tả được. Chỉ trong sự im lặng hoàn toàn phá bỏ tất
cả hình tướng, nghi thức, con người mới tự do sống bình an với nhau,
hiểu sự liên quan giữa mình và đồng loại. Con người thường suy tư về sự
liên hệ giữa người với người, nhưng sự suy tư này ít nhiều đều thiên vị.
Nó luôn luôn sai lạc nếu nó khảo sát sự vật xuyên qua bản ngã. Tư tưởng
con người chỉ chân chính khi họ thoát khỏi các thành kiến, điều kiện
bao bọc bên ngoài. Tự do tư tưởng không phải chỉ là muốn nghĩ thế nào
thì nghĩ, mà còn là giải thoát ta ra khỏi các áp lực bắt ta phải suy
nghĩ theo một lề lối nào đó. Đây là một chân lý chỉ tìm thấy trong sự
yên lặng, trong sự cởi bỏ mọi nghi thức, hình tướng, ngôn từ, các thành
kiến dị biệt, các cưỡng bách tư tưởng, các sợ hãi bắt nguồn từ vô minh.
Chỉ khi nào hoàn toàn tự do, con người mới thực sự bình an và giải
thoát.
Phái đoàn từ giã vị giáo sĩ giữ đền. Cuộc viếng thăm tuy ngắn ngủi
nhưng đã gây một ấn tượng tốt đẹp với mọi người. Hình như có một luồng
điện từ vô hình phảng phất quanh ngôi đền, khiến ai cũng thấy trong lòng
dào dạt một sự bình an khó tả. Lối tu trong yên lặng không còn là một
vấn đề trừu tượng, vô ích như họ nghĩ. Quả thật xứ Ấn còn rất nhiều điều
để cho người Âu học hỏi và suy nghĩ.
Nhận xét
Đăng nhận xét