Hành trình về phương Đông | Chương 3: Khoa học thực nghiệm và khoa học chiêm tinh bí truyền
Lawrence Keymakers là một người Anh giàu có, sống tại Benares nhiều
năm. Ông làm chủ nhiều xí nghiệp lớn và có kiến thức rất rộng về xứ sở
Ấn Độ. Thương gia Lawrence khoản đãi phái đoàn trong tòa biệt thự rộng,
xây cất bên bờ sông Hằng.
Sau câu chuyện xã giao, giáo sư Allen lên tiếng:
- Ông nghĩ sao về những điều người Ấn gọi là Minh Triết thiêng liêng và những sự kiện mê tín dị đoan xảy ra ngoài chợ?
Lawrence lắc đầu:
- Xứ này vẫn có những trò biểu diễn như thế, nhưng ngoài những cái mà
ta cho là ảo thuật hoặc mê tín dị đoan còn ẩn náu những ý nghĩa tâm linh
rất ít ai biết được. Muốn tìm hiểu phải nghiên cứu cặn kẽ chứ không thể
kết luận vội vã…
Giáo sư Oliver bật cười:
- Ông cho rằng những trò ngồi bàn đinh, thổi kèn gọi rắn còn ẩn giấu những ý nghĩa tâm linh hay sao?
- Tùy tâm trạng của mình mà xét đoán sự kiện, nếu ta nhìn nó dưới cặp
mắt của người Âu thì ta sẽ chỉ thấy nó là một trò múa rối không hơn
không kém, nhưng nếu ta gạt bỏ các thành kiến, biết đâu ta chẳng học hỏi
thêm được nhiều điều.
Giáo sư Allen châm biếm:
- Ông ở Ấn đã lâu, chắc đã học hỏi được nhiều điều mới lạ…
Lawrencemỉm cười:
- Đúng thế, tôi đã học hỏi rất nhiều và điều đầu tiên tôi học được là
sự khiêm tốn. Chỉ có sự khiêm tốn mới giúp ta học hỏi thêm những điều
mới lạ. Các bạn hãy nhìn ly nước đầy trên tay tôi đây, nếu tôi tiếp tục
rót thêm thì nước sẽ tràn ra ngoài. Trừ khi tôi đổ bớt nước trong ly đi
thì tôi mới rót thêm nước vào được. Kiến thức cũng thế, chỉ khi ta khiêm
tốn gạt bỏ những thành kiến sẵn có, ta mới tiếp nhận thêm được những
điều mới lạ. Các bạn muốn nghiên cứu học hỏi những minh triết của xứ Ấn,
nhưng vẫn giữ thành kiến của người Âu, khinh bỉ mọi sự thì có khác chi
ly nước đầy, làm sao rót thêm nước vào được nữa?
Mọi người im lặng, câu nói thẳng của vị thương gia ít nhiều đã chạm tự
ái của những người trong phái đoàn. Dù sao họ cũng là những nhà khoa học
nổi tiếng nhất của Hoàng gia Anh, lúc nào cũng được nể vì, kính trọng.
Để phá tan bầu không khí nặng nề, giáo sư Morimer chỉ một hình vẽ lạ
lùng treo trên tường:
- Đây là hình vẽ gì vậy? Trông như các tinh tú thì phải…?
- Bạn nói đúng, đó là lá số tử vi của tôi.
Mọi người bật cười, giáo sư Allen khôi hài:
- Lá số tử vi? Lawrence thân mến, ông đã trở thành người Ấn hồi nào vậy?
Lawrencenghiêm mặt:
- Đây là một món quà vô giá của Sudeih Babu, nhà chiêm tinh giỏi nhất Ấn Độ.
Cả phái đoàn phá lên cười, vì nghĩ đến những gã thầy bói ngồi xổm bên
lề đường. Khắp xứ Ấn, chỗ nào cũng có thầy bói thầy tướng kiếm ăn nhờ sự
mê tín của dân chúng. Đồ nghề của họ là một vài cuốn sách bẩn thỉu, vài
niên lịch lạ lùng. Họ tự hào có thể biết rõ số phận sang hèn của mọi
người, nhưng hình như lại không biết gì về số phận của chính họ.
Lawrencelắc đầu:
- Sudeih là một vị thầy, một người thuộc giai cấp thượng lưu quý phái
chứ không phải loại thầy bói hạ cấp. Ông nghiên cứu tử vi từ nhỏ và có
thể biết trước nhiều điều quan trọng. Các bạn muốn khảo cứu hiện tượng
huyền bí sao không đến gặp ông. Biết đâu ông ấy có thể giúp các bạn.
Sudeih có thói quen là không bao giờ tiếp khách lạ, nhưng ông ấy là bạn
thâm giao của tôi, tôi sẽ hết lòng giới thiệu.
Giáo sư Allen lắc đầu:
- Chúng tôi muốn nghiên cứu nền văn minh xứ Ấn, chứ không phải xem vận mạng hên xui tốt xấu.
- Chúng tôi muốn nghiên cứu nền văn minh xứ Ấn, chứ không phải xem vận mạng hên xui tốt xấu.
Lawrencemỉm cười bí mật:
- Như thế các bạn lại càng phải đến gặp nhà chiêm tinh này. Các bạn nên
nhớ là dù các bạn có muốn, chưa chắc Sudeih đã chịu tiếp các bạn. Chính
tiểu vương xứ Punjab đến xin yết kiến ba ngày ba đêm mà Sudeih cũng
không thèm tiếp…
Nhà chiêm tinh ở một biệt thự rộng lớn, quanh nhà trồng rất nhiều cây
cảnh. Đã có hẹn trước nên gia nhân mời tất cả mọi người vào trong phòng
khách. Đó là một căn phòng rất lớn, trang trí sang trọng như phòng một
ông hoàng.
Sudeih Babu là một người Ấn gầy gò nhỏ bé nhưng có đôi mắt sáng ngời,
chứng tỏ một đời sống nội tâm dồi dào. Ông di chuyển hết sức chậm rãi
như một con mèo và nói bằng một thứ tiếng Anh rất đúng giọng và lịch sự:
- Keymakers cho biết các ông muốn tìm hiểu về khoa chiêm tinh?
Giáo sư Oliver nói ngay:
- Xin ông hiểu cho, chúng tôi muốn sưu tầm các hiện tượng huyền bí chứ không hoàn toàn tin tưởng về môn này.
Babu im lặng nhìn mọi người, lạnh lùng:
- Nếu các ông muốn, tôi có thể lấy lá số tử vi cho các ông.
Giáo sư Oliver nghi ngờ:
- Xin ông đừng dài dòng về tương lai và may rủi. Hãy nói thử về quá khứ của tôi xem sao.
Babu gật đầu hỏi giáo sư Oliver vài câu về ngày sinh rồi ông phóng bút
vẽ các ký hiệu lạ lùng lên một tờ giấy. Ông chậm rãi tuyên bố:
- Ông sinh trưởng trong một gia đình thương gia. Từ nhỏ ông nuôi mộng
hải hồ thích du lịch, nhưng gia đình ông nghiêm khắc ngăn cấm. Thân phụ
ông muốn con mình phải theo học về thương mại tại Oxford để nối nghiệp.
Tuy nhiên, ông lại có năng khiếu về khoa học, nên chỉ một thời gian ngắn
ông đã chuyển qua ngành Vật lý học. Cha ông giận quá, nhất định không
giúp đỡ gì ông nữa. Gia tài sự nghiệp truyền cho các em ông. Đến khi ông
trở thành một nhà khoa học lỗi lạc của Hoàng gia thì cha ông lại bắt
ông trở về đi vào con đường chính trị. Dưới áp lực gia đình, ông thành
hôn với một thiếu nữ dòng dõi quý tộc. Cuộc hôn nhân không mang lại hạnh
phúc và ông vùi đầu trong phòng thí nghiệm để tìm quên. Người vợ quen
thói giao thiệp rộng đã phá nát tài sản sự nghiệp, và còn ngoại tình
nữa. Cha ông buồn phiền, thất vọng qua đời. Ông chịu đựng người vợ suốt
18 năm cho đến khi bà ta từ trần. Sau khi thu xếp mọi việc, ông gia nhập
phái đoàn với mục đích rời xa Luân Đôn và thỏa mãn giấc mộng hải hồ.
Giáo sư Oliver ngồi im không thốt lên một tiếng, chứng tỏ những điều
Babu nói không sai. Một không khí nặng nề bao trùm căn phòng. Babu lạnh
lùng tiếp:
- Ông có muốn tôi nói thêm chi tiết hay nói về tương lai nữa không?
Giáo sư Oliver lắc đầu xua tay, mặt mày tái nhợt như người vừa trải qua một điều gì kinh khủng. Giáo sư lên tiếng:
- Nhưng tại sao các tinh tú ở xa lại ảnh hưởng đến từng cá nhân được?
Babu thong thả trả lời:
- Nếu tinh tú ở xa quá thì khoa học thực nghiệm giải thích thế nào về
ảnh hưởng của mặt trăng đối với nước thủy triều lên xuống hoặc chu kỳ
kinh nguyệt trong thân thể đàn bà?
- Nhưng nếu tôi bị tai nạn thì điều đó ăn nhập gì đến các hành tinh!
Babu lắc đầu mỉm cười:
- Các ông nên nghĩ thế này, tinh tú chỉ là biểu tượng mà thôi. Tự nó
không ăn nhập gì đến chúng ta hết, mà chính cái dĩ vãng của ta đã ảnh
hưởng đến đời sống hiện tại. Tinh tú chỉ phản chiếu lại ảnh hưởng này mà
thôi. Không ai có thể hiểu khoa chiêm tinh nếu họ không tin luật Luân
Hồi. Con người chết và tái sinh trở lại trong nhiều kiếp. Định mệnh của y
theo dõi và ảnh hưởng lên đời sống của y theo luật Nhân Quả. Nếu ta
không tin con người chết đi và đầu thai lại để học hỏi, để tiến hóa, để
trở nên một người toàn thiện, thì mọi sự đều là ngẫu nhiên hay sao? Một
Thượng Đế công bình, bác ái có lẽ nào dung túng điều này? Khi ta qua
đời, thể xác hư thối tan rã nhưng tính tình, dục vọng, ý chí vẫn còn
nguyên; cho đến khi ta đầu thai vào một kiếp sống mới thì những tính này
sẽ trở thành tính cách của kiếp sau. Các hành tinh chỉ là tấm gương ghi
nhận các nguyên nhân này và phản chiếu trở lại. Bất cứ một hành động
nào cũng tạo nên một nguyên nhân dù xấu hay tốt, ví như ta ném một trái
bóng lên không trung. Trước sau gì nó cũng rơi xuống vì trọng lượng và
ảnh hưởng của sức hút trái đất, nhưng đến khi nào nó rơi xuống thì còn
tùy sức ném của ta mạnh yếu ra sao. Khoa chiêm tinh nghiên cứu các năng
lượng vũ trụ này để đoán được khi nào cái nguyên nhân trước sẽ trở lại.
Babu im lặng một lúc và thong thả giải thích thêm:
- Trước khi đi xa hơn, tôi muốn các ông hiểu lịch sử chiêm tinh để có
một cái nhìn thật đúng đắn. Từ ngàn xưa, chiêm tinh học vẫn được coi là
một khoa học quan trọng. Chiêm tinh gia có địa vị cao đứng thứ hai, chỉ
sau giáo sĩ mà thôi. Đối tượng của khoa chiêm tinh là vũ trụ. Tiếc thay
phần này đã bị thất truyền, chỉ còn phần nhỏ nói về sự liên hệ giữa con
người và các vì tinh tú là còn được lưu truyền đến nay và được xem là
khoa bói toán. Khoa chiêm tinh có từ lúc nào không ai biết, nhưng hiền
triết Bhrigu đã truyền dạy các môn đồ của ông vào khoảng 6.000 năm trước
dựa vào bộ sách Brahma Chinta do chính ông soạn ra. Bhrigu có bốn đệ
tử. Người thứ nhất rất giỏi về khoa học đã đi sang Ba Tư (Iran) lập
nghiệp, từ đó khoa chiêm tinh đi về hướng Tây và ảnh hưởng đến Hy Lạp và
La Mã sau này. Người thứ hai rất giỏi về triết học đi về phương Đông,
sang truyền bá ở Trung Hoa. Người thứ ba thích nghiên cứu những hiện
tượng siêu hình đã lên Tuyết Sơn nhập thất và sau truyền môn này cho dân
chúng Tây Tạng. Người thứ tư ở lại xứ Ấn và làm đến chức quốc sư. Bộ
sách Brahma Chinta được coi là quốc bảo cất trong cung điện. Sau này,
các hoàng tử tranh cướp ngôi vua đã giành nhau bộ sách quý. Sau mấy chục
năm chinh chiến, bộ sách bị phân chia, mỗi ông hoàng giữ một mảnh, và
từ đó khoa chiêm tinh bị thất truyền. Các mảnh vụn đã được các thầy bói
sưu tầm, ghi chép lại và dùng nó kiếm ăn; nhưng họ chỉ nắm được một vài
điều then chốt chứ không sao hiểu hết. Như các ông thấy, căn nhà này rất
lớn, gồm có 49 phòng, mỗi phòng đều chứa đầy các sách vở do tôi sưu
tầm. Tất cả gia tài sự nghiệp của tôi đều được dùng để sưu tầm các sách
cổ…
Tôi xuất thân từ một gia đình hoàng tộc nhưng tôi chỉ ham mê khoa chiêm
tinh. Tôi bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu, theo học các nhà chiêm tinh
nổi tiếng cho đến khi sưu tầm được bộ Brahma Chinta. Dĩ nhiên, bộ sách
này nguyên bản có đến mấy ngàn trang nhưng tôi chỉ sưu tầm được có vài
trăm trang và tốn gần 20 năm để nghiên cứu nó.
Babu mỉm cười nhìn giáo sư Oliver:
- Ngài Oliver thân mến, lá số tôi lấy cho ông cho thấy ông rất khác
thường so với người Âu. Tin hay không tùy ý ông, đúng hay sai chỉ ông
mới biết, nhưng tôi muốn nói thêm rằng giờ các nghiệp quả đã trả xong,
đời ông đã bước vào một khúc quanh quan trọng. Lá số cho thấy ông đã đến
bên thềm Đạo và sắp được sự dìu dắt của một hiền giả.
Giáo sư Oliver cảm động xiết chặt đôi tay gầy guộc của nhà chiêm tinh.
Toàn thể phái đoàn cũng xúc động không kém. Khi trước họ đã nghi ngờ
khoa bói toán, nhưng sự kiện vừa xảy ra đã thay đổi tất cả. Không ai ngờ
giáo sư Oliver lại có một đời sống cá nhân bất hạnh như thế.
Babu đưa phái đoàn đi xem những căn phòng chứa sách với những tủ lớn
chứa đựng hàng ngàn cuốn sách cổ. Giáo sư Mortimer, một nhà khảo cổ học
của trường Harvard đã phải kinh ngạc trước kho tàng sách vở vô giá này.
Có những bộ sách viết trên giấy payrus cả ngàn năm trước, xen lẫn các
tài liệu khắc trên gỗ vào thế kỷ thứ 6. Cả phái đoàn có cảm tưởng như
phần lớn kho Minh triết xứ Ấn đều tập trung nơi đây. Giáo sư Mortimer
lên tiếng:
- Kho sách vở này nói về những gì vậy?
- Đó là những sách về vấn đề Tôn giáo, Minh triết cổ truyền, Triết học Ấn Độ.
- Như thế ông cũng là một triết gia?
Babu mỉm cười:
- Một người không hiểu về triết lý sẽ chỉ là một hạng chiêm tinh tồi hay thầy bói hạ cấp.
- Ông có thu nhận đệ tử không?
- Có rất nhiều người đến xin tôi dạy dỗ nhưng tôi từ chối vì thấy họ
không đủ thiên tư để lĩnh hội hay không đủ ý chí để đi đến cùng. Tôi
nghĩ mình chưa đủ sức làm thầy ai hết mà chỉ là một người ham mê nghiên
cứu, cũng như các ông là những nhà khoa học say mê kiến thức khoa học.
- Nhưng ông cũng dùng chiêm tinh để hướng dẫn đời mình chứ? Ông có thể xem được quá khứ vị lại kia mà.
Babu lắc đầu:
- Không đâu, tôi đã tìm thấy ánh sáng Chân Lý, và không cần đến khoa
chiêm tinh nữa. Khoa học này chỉ hữu ích cho những kẻ còn lần mò trong
bóng tối. Tôi đã hoàn toàn trao trọn đời mình vào tay Thượng Đế
(Brahman). Không còn lo nghĩ, ưu phiền gì về tương lai nữa. Bất cứ điều
gì xảy ra tôi cũng chấp nhận như ý muốn của Ngài.
- Nếu ông bị kẻ hung dữ hãm hại làm lâm nguy tính mạng thì ông có cho đó là thiên ý không? Ông sẽ làm gì để tự vệ chứ?
- Tôi biết rằng trong khi nguy cấp chỉ cần cầu nguyện là đủ. Cầu nguyện
là cần thiết vì lo âu chẳng ích gì. Nhiều khi tôi gặp khó khăn, lúc đó
tôi ý thức hơn bao giờ hết sự giúp đỡ của Thượng đế. Các bạn có biết
rằng tôi đã xé bỏ lá số tử vi của mình từ khi tìm thấy ánh sáng Chân Lý.
Tôi tin chắc rằng con người có thể cải tạo tinh thần để hòa hợp với
Thượng đế, còn các việc xảy ra do hậu quả của quá khứ ta không thể thoát
được thì lo lắng có ích gì?
Ý niệm về Thượng đế là điều phái đoàn luôn luôn nghe nói đến, người dân
châu Á châu có một tinh thần tôn giáo rất mạnh, tôn sùng Thượng đế quá
nhiệt thành. Họ đâu hiểu rằng người Âu vốn có óc hoài nghi, thường thay
thế cái đức tin đơn giản bằng cái lý trí phức tạp. Làm sao họ có thể
hiểu rằng Thượng đế chỉ là một quan niệm, một giả thuyết cũng như trăm
ngàn giả thuyết khác, nghĩa là cần phải chứng minh cụ thể.
Babu mỉm cười như đọc được ý nghĩ mọi người:
- Này các bạn, cái lý trí tự cao tự đại của con người không có ích gì
cả. Chỉ khi nào họ đạt đến trạng thái tĩnh lặng của tâm hồn, họ mới ý
thức được các luật huyền bí của vũ trụ và sự nhỏ bé của con người. Khi
tách khỏi trạng thái u mê của lý trí, họ mới ý thức sự an lạc tuyệt vời
khi hòa hợp với Thượng đế.
Giáo sư Allen lắc đầu:
- Tại sao ông không nghĩ rằng đó là một ảo ảnh? Một sự tưởng tượng?
Babu bật cười:
- Này các bạn, một bà mẹ sinh con có khi nào lại nghi ngờ rằng đứa con
đó không có thật. Khi hồi tưởng lúc lâm bồn, có khi nào bà ấy cho rằng
đó chỉ là một sự tự kỷ ám thị? Khi nhìn đứa con mỗi ngày một lớn khôn,
làm sao bà mẹ lại nghĩ rằng đứa bé không hiện hữu? Sự giác ngộ tâm linh
là một biến cố vô cùng quan trọng trong đời người mà không ai có thể
quên được, vì từ đó con người hoàn toàn thay đổi, trở thành một người
mới.
Babu đưa mắt nhìn một lượt cả phái đoàn, tất cả đều là những giáo sư, nhà khoa học danh tiếng nhất… Ông mỉm cười tuyên bố:
- Chúng ta chỉ mới ở vào buổi bình minh của khoa học, nhưng mỗi khám
phá mới, mỗi kiến thức mới, đều đem lại cho chúng ta một bằng chứng
rằng, vũ trụ này là công trình của một đấng hóa công. Hãy lấy một thí dụ
toán học cho dễ hiểu. Nếu ta bỏ vào túi 10 thẻ nhỏ, mỗi thẻ có ghi từ
số 1 đến số 10, và tuần tự rút ra từng cái một. Sau khi rút xong ta lại
bỏ thẻ vào túi, trộn đều và rút ra lần nữa. Làm sao ta có thể rút tuần
tự từ số 1 đến số 10? Theo toán học, ta phải rút mười lần, mới có một
lần rút được thẻ mang số 1. Phải rút 100 lần mới có một lần rút được số 1
và 2. Phải rút 1000 lần mới được số 1, 2, 3 liên tiếp. Nếu muốn rút
theo thứ tự từ 1 đến 10, thì trường hợp đặc biệt này chỉ có thể xảy ra
một lần trong mười tỷ lần, có đúng không? Nếu áp dụng toán học vào các
điều kiện tạo ra đời sống ở quả đất này, thì ta thấy nguyên lý ngẫu
nhiên không sao hội đủ các điều kiện cần thiết. Vậy thì ai đã tạo ra nó?
Trái đất quay quanh trục của nó với vận tốc 1.600 cây số một giờ ở giữa
đường xích đạo. Nếu nó quay chậm 10 lần thì ngày sẽ dài gấp 10 và dĩ
nhiên sức nóng của mặt trời cũng gia tăng gấp 10 lần. Thế thì cây cối,
sinh vật đều bị thiêu sống hết còn gì. Nếu cái gì chống lại được sức
nóng thì cũng chết lạnh vì đêm cũng dài ra gấp 10 và độ lạnh cũng tăng
lên gấp 10 lần kia mà. Ai đã làm trái đất quay trong một điều kiện tốt
đẹp như thế? Mặt trời là nguồn sống của quả đất phải không? Mặt trời
nóng khoảng 5.5000C. Quả địa cầu ở đúng một vị trí tốt đẹp không xa quá
mà cũng không gần quá. Vừa vặn đủ để đón nhận sức nóng của mặt trời. Nếu
sức nóng mặt trời gia tăng một chút, ta sẽ chết thiêu, và ngược lại nếu
sức nóng mặt trời giảm đi một chút, ta sẽ chết rét. Tại sao trái đất
nằm ở điều kiện thuận lợi như vậy? Trục trái đất nghiêng theo một tọa độ
là 23 độ. Nếu trái đất đứng thẳng, không nghiêng theo bên nào thì sẽ
không có thời tiết bốn mùa. Nước sẽ bốc hơi hết về hai cực và đông thành
băng giá cả. Mặt trăng là một vệ tinh của trái đất, điều khiển thủy
triều biển cả. Nếu nó không cách xa trái đất 380.000 cây số mà xích lại
gần hơn 80.000 cây số thì một cuộc hồng thủy sẽ xảy ra. Nước sẽ bị sức
hút dâng lên ngập tất cả các lục địa mỗi ngày hai lần. Tóm lại, tất cả
sự sống trên mặt địa cầu sẽ biến mất, nếu các điều kiện hiện tại này sai
lệch đi một ly. Nếu nói rằng đời sống chỉ là một sự ngẫu nhiên thì
trong tỷ tỷ lần may ra mới có một điều kiện tốt đẹp hoàn toàn để có được
sự sống như thế.
Babu quay sang nhìn giáo sư Allen, một nhà sinh vật học của trường Harvard:
- Nếu toán học xem ra có vẻ trừu tượng quá, hãy thử quan sát thiên
nhiên dưới cái nhìn của khoa sinh vật học xem sao. Ta thấy tạo hóa rất
chu đáo hiện diện trong khả năng sinh tồn của mọi sinh vật. Sự sống
không có trọng lượng hay chiều cao mà mạnh mẽ làm sao. Bạn hãy nhìn một
rễ cây non nớt, mềm yếu, vậy mà nó có thể soi nứt một tảng đá cứng rắn.
Sự sống chinh phục không khí, đất, nước. Nó thống trị mọi nguyên tố, nó
bắt buộc vật chất tan rã rồi lại kết hợp thành các hình thể mới. Sự sống
là nhà điêu khắc nặn thành những hình thể mới lạ, là họa sĩ vẽ những
cảnh vật thiên nhiên tô điểm cho tạo hóa. Sự sống cũng là nhạc sĩ dạy
chim hót thánh thót, dạy côn trùng ngân nga, là nhà hóa học chế ra các
hương thơm, quả ngọt. Sự sống từ các loài cây cỏ thu lấy thán khí (CO2)
biến thành dưỡng khí (O2) nuôi muôn loài. Hãy nhìn những giọt chất
nguyên sinh (protoplasm) trong suốt gần như vô hình, mắt ta không thể
nhìn thấy, vậy mà nó có thể chuyển động theo ánh sáng và sức nóng của
mặt trời. Chính cái tế bào đơn độc này chứa mầm sống của muôn loài, và
là cội nguồn của toàn sự sống theo khoa học thực nghiệm. Tự nó không tạo
ra sự sống vậy thì sự sống ở đâu đã đến. Này các ông bạn, giống cá hồi
sinh ra ở nước ngọt, theo dòng nước ra biển và sống ở đây cho đến khi
trưởng thành rồi lại trở về nguồn. Hãy nhìn nó lội ngược dòng về sinh
quán, nó bơi một mạch đâu hề phân vân lưỡng lự. Nếu ta bắt nó đem đến
một chỗ khác, nó vẫn trở lại nơi xưa. Ai đã dạy cho nó phân biệt một
cách chắc chắn như vậy? Loài lươn biển cũng thế, khi trưởng thành, chúng
rời nơi sinh sống từ các ao hồ, sông lạch khắp nơi trên thế giới để bắt
đầu một cuộc du hành đến tận ngoài khơi quần đảo Bermuda. Muốn đến đây,
một con lươn châu Âu phải đi gần 4.000 cây số, lươn châu Á phải đi xa
hơn, có khi gần 8.000 cây số. Chỉ tại đây chúng mới sinh sản và chết.
Các con lươn con sinh ra tại đây không biết gì về nguyên quán mà vẫn trở
về quê hương xa xôi của cha mẹ chúng, biết tìm về một cái lạch ở Pháp
hay một cái hồ ở Indonesia. Giống nào về nhà giống đó, một con lươn Pháp
không bao giờ bị bắt ở Ấn Độ và một con lươn Thái Lan không bao giờ đi
lạc sang châu Phi. Ai đã ban cho loài lươn sự nhận biết phân biệt như
thế? Ai đã hướng dẫn những con lươn bé bỏng trên con đường phiêu du ngàn
dặm như vậy? Chắc chắn không thể do ngẫu nhiên phải không các bạn?
Toàn thể phái đoàn kinh ngạc trước kiến thức quảng bác của nhà chiêm
tinh gầy gò, bé nhỏ này. Không ai ngờ một xứ chậm tiến như Ấn Độ lại có
một nhà bác học uyên thâm như vậy. Babu mỉm cười nói tiếp:
- Có lẽ các ông còn nhiều phân vân. Thôi được, hãy nói về yếu tố di
truyền cho thực tế hơn. Yếu tố này là một mầm sống nguyên thủy rất nhỏ
chứa đựng trong tất cả các tế bào. Mọi sinh vật đều có đặc điểm di
truyền khác nhau. Yếu tố này cho ta thấy rõ sự sống đã được trù định từ
trước vì một cái cây sẽ tạo ra một cái cây, chứ không phải con vật. Từ
các loài sinh vật bé nhỏ như con kiến đến các loài sinh vật to lớn như
cá voi đều chịu sự chi phối của yếu tố này. Điều này chắc chắn không
phải do ai nghĩ ra hay là sự ngẫu nhiên phải không? Chỉ có Đấng sáng tạo
mới có đủ quyền năng làm các việc đó. Này các bạn, khắp nơi trong vũ
trụ đâu đâu cũng có một sự quân bình tuyệt đối, không loài nào lấn át
loài nào. Hãy nhìn loài côn trùng, chúng sinh sản rất nhanh mà sao không
chiếm quả đất? Ấy là vì chúng không có bộ phổi như loài động vật có vú.
Chúng thở bằng khí quản của loài côn trùng (trachea) và khi chúng lột
xác lớn lên, khí quản không lớn lên theo nên thân thể chúng bị giới hạn
trong một khuôn khổ nhất định. Con người hơn loài thú ở điểm là có lý
trí. Bản năng con thú tuy kỳ diệu, nhưng bị giới hạn. Bộ óc con người
tuyệt vời ở chỗ nó có thể vượt xa tầm giới hạn của nó. Muốn nhận thức sự
hiện hữu của Thượng đế, cần phải có một năng khiếu mà chỉ loài người
mới có. Ta có thể gọi đó là trí tưởng tượng cũng được, nhưng nhờ nó mà
con người mới thu nhận các sự kiện vô hình, vô ảnh. Trí tưởng tượng mở
cho ta một chân trời bao la và nhờ thế ta mới ý thức một thực tại tuyệt
diệu rằng Thượng đế là tất cả, ngài ở khắp mọi nơi, nhưng không ở đâu
ngài hiện rõ như trong tâm hồn chúng ta.
Toàn thể phái đoàn yên lặng, thán phục những dẫn chứng hoàn toàn khoa
học và giản dị của nhà chiêm tinh. Vài giờ trước đây, ai cũng nghi ngờ
khả năng của “gã thầy bói”; nhưng hiện giờ mọi người đều công nhận đó là
một nhà bác học với kiến thức uyên bác không thua kém một ai.
Babu mỉm cười nhìn tất cả mọi người và nói:
- Là những nhà khoa học, các ông hãy suy nghĩ về những điều tôi vừa
trình bày. Hãy quan sát vũ trụ, hãy dẹp bỏ các thành kiến sẵn có và sự
ngông cuồng của khoa học thực nghiệm, rồi các ông sẽ thấy tất cả đều
diễn ra trong một trật tự, mỹ lệ và điều hòa. Các ông sẽ ý thức sự bé
nhỏ của con người trước vũ trụ bao la vì khoa học xây dựng trên căn bản
của giác quan vốn rất giới hạn, sao có thể thấu cảm với vũ trụ được? Nếu
ta cứ khăng khăng cho rằng những gì không nghe được, không nhìn được
đều không hiện hữu thì thật là một sai lầm tai hại. Có biết bao nhiêu sự
kiện xảy ra mà giác quan giới hạn của con người không thể cảm nhận, cho
đến một ngày nào họ khai mở các giác quan khác….
- Làm sao ông biết như thế?
- Tôi đã nghiên cứu trực tiếp các vấn đề này trong khi Thiền định. Các sách vở bí truyền cũng đều nói rất rõ như vậy…
Giáo sư Mortimer hấp tấp:
- Chúng tôi có thể nghiên cứu hay phiên dịch những sách này không?
Babu mỉm cười:
- Liệu ông có muốn bỏ ra vài chục năm để phiên dịch không? Sách vở
huyền môn đâu phải loại sách phổ thông để mọi người coi chơi. Theo tôi
hiểu thì chỉ một thiểu số người thích nghiên cứu nó vì trong tiền kiếp
họ đã có những hứng khởi tâm linh, đã từng nghiên cứu vấn đề này, đã có
đủ trí tuệ để xét suy một cách tường tận. Họ là những người đã đến bên
thềm Đạo và sắp bước vào. Chỉ những người này mới thích thú để tâm
nghiên cứu những quyển sách khô khan như những sách trong nhà tôi.
Toàn thể phái đoàn im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng nhưng
tất cả đều đồng ý rằng nhà chiêm tinh nói không sai. Giáo sư Allen lên
tiếng:
- Tại sao thấy ánh sáng Chân Lý rồi mà ông vẫn tiếp tục hành nghề chiêm
tinh. Tại sao ông còn chỉ vẽ cho người đời về quá khứ, vị lai?
Babu hãnh diện tuyên bố:
- Tôi sống và phụng sự thế gian bằng nghề nghiệp này. Đâu phải ai tôi
cũng tiếp, bất kể đó là tiểu vương hay thủ tướng. Nếu thấy bạn không có
tâm hướng thiện, sửa đổi thì không đời nào tôi hé môi nói một điều gì.
Biết bao người đã đến cổng, nhưng mấy người vào được đến đây. Cách đây
ít lâu, một tiểu vương cho khuân đến một rương ngọc chỉ để hỏi tôi một
điều nhưng tôi không trả lời. Nếu không nhận được một thông điệp bằng tư
tưởng thì dễ gì tôi tiếp các ông và nếu không xem qua lá số của giáo sư
Oliver, dễ gì tôi tiết lộ các bí mật cho những người lạ, nhất là người
Âu Mỹ. Từ xưa đến nay, khoa chiêm tinh vẫn bị người đời hiểu lầm và diễn
tả sai lạc rất nhiều. Nhờ nghiên cứu bộ sách nguyên thủy Brahma Chinta
nên tôi có thể nói cho các ông biết chút ít về khoa học này, với hy vọng
sẽ đánh đổ phần nào thành kiến sai lầm của người Âu.
Khi sinh ra đời, mỗi cá nhân đều mang sẵn một tài sản khác nhau, đó là
Nghiệp Báo. Tài sản này có thể tốt đẹp do các nguyên nhân hợp với thiên ý
hoặc xấu xa bởi các lỗi lầm trong tiền kiếp. Tất cả nguyên nhân này đều
ẩn chứa trong Tàng thức hoặc A-lại-da-thức (alayavijnana), và trở thành
động lực chi phối đời ta. Động lực này bị ảnh hưởng bởi các mãnh lực
trong vũ trụ một cách vô cùng phức tạp và biến thành một thứ gọi là Tia
vũ trụ (cosmic rays). Những Tia vũ trụ này không ồ ạt ảnh hưởng đến ta
ngay, mà tùy theo sự thay đổi của tinh tú để phản chiếu xuống trần gian.
Điều này rất hợp lý vì trải qua vô lượng kiếp sống, con người đã làm
biết bao điều xấu xa, đâu thể nào trong vài ba kiếp mà trả hết được. Đó
cũng là lý do con người cứ trầm luân trong luân hồi sinh tử. Chiêm tinh
học nghiên cứu sự xê dịch, vận hành của tinh tú mà đoán biết được các
ảnh hưởng đối với con người trong kiếp sống này. Nhờ nghiên cứu chiêm
tinh mà người ta hiểu rõ rằng không hề có một đấng thần linh nào thưởng
phạt hay kiểm soát các hành động của ta. Tất cả chỉ là hậu quả của những
gì do ta tạo nên và ta phải gánh chịu.
- Nhưng chính ông đã đề cập đến Thượng đế và sự hiện hữu của ngài kia mà?
Babu bật cười:
- Các ông vẫn còn quan niệm rằng Thượng đế là một ông già ngồi trên cao
nắm quyền sinh sát, định đoạt số phận con người – đó là một quan niệm
rất ấu trĩ. Thượng đế cao cả hơn nhiều, ngài sáng tạo và đặt tất cả vào
một trật tự trong vũ trụ. Làm gì có việc ngài định đoạt số phận từng
người như các ông nghĩ. Tất cả diễn tiến theo luật vũ trụ, nhân nào quả
nấy, bất cứ lực nào cũng có một phản lực đi kèm; đó là khoa vật lý chứ
đâu phải gì xa lạ? Làm gì có việc số mệnh đã định sẵn, nếu thế ta cứ
tiêu cực, bất động mặc cho số phận run rủi hay sao? Này các bạn, chiêm
tinh học là một khoa học thực tiễn và tiến bộ, không thể có vấn đề mê
tín. Lá số tử vi không có nghĩa rằng con người là nô lệ của quá khứ, mà
nó cho ta thấy rõ sự tuần hoàn của vũ trụ, trong đó con người có thể
thay đổi số mạng của mình. Chiêm tinh học nghiên cứu phản ứng của con
người dưới ảnh hưởng của các vì tinh tú. Các tinh tú chỉ là những khí cụ
trung gian biểu lộ một cách trung thực các tác động quân bình của
nghiệp quả gây nên trong quá khứ. Mỗi người sinh ra đời vào một ngày giờ
mà ảnh hưởng của tinh tú hòa hợp với nghiệp quả cá nhân của người đó.
Các tia vũ trụ được tinh tú phản chiếu xuống làm mạch máu di chuyển, tế
bào thay đổi, dĩ nhiên ảnh hưởng đến cuộc đời con người. Mặc dù con
người không thể thay đổi việc đã xảy ra trong quá khứ, nhưng nhờ ý chí
tự do, họ có thể vượt khỏi tầm ảnh hưởng này và chiến thắng ảnh hưởng
tinh tú. Tôi lấy một thí dụ như thương gia Keymakers, bạn của các ông.
Đáng lý theo số mạng thì ông ta phải chết trong cuộc chiến vừa qua.
Nhưng vì một mầm thiện nảy sinh, thấy chiến tranh quá ư tàn khốc, ông ta
động lòng trắc ẩn mang tài sản ra giúp đỡ rất nhiều nạn nhân chiến
cuộc. Dĩ nhiên, khi đó ông ta không hề biết gì về số mạng của mình,
nhưng hành vi bác ái này đã tạo một phản lực mạnh mẽ thúc đẩy các tia vũ
trụ xê dịch sang một bên và nhờ thế ông ta thoát chết. Số mạng của ông
ta hoàn toàn thay đổi từ đó. Các ông cần hiểu rằng hoán cải số mạng
không có nghĩa việc quá khứ sẽ bị xóa bỏ, nhưng đáng lý một biến cố lớn
sẽ xảy ra trong kiếp này, lại không xảy ra. Khi ta phát tâm làm một việc
hợp với thiên ý thì một tinh tú ảnh hưởng tới ta bỗng chói sáng và các
sóng điện mạnh mẽ đẩy ngược tia vũ trụ sang hướng khác. Do đó, con người
có thể cải số mệnh dễ dàng nếu biết làm các việc tốt lành, đẹp đẽ. Dĩ
nhiên, ảnh hưởng xấu không mất đi, nhưng sẽ tiềm ẩn, chờ một cơ hội khác
sẽ xuất hiện lại. Nói một cách khoa học thì đời người có thể ví như một
phương trình toán học, A + B = C. A với B là nguyên nhân và C là hậu
quả, nhưng nếu ta thêm vào đó một nguyên nhân X thì A + B + X sẽ không
thể bằng C nữa, vì đã có thêm giá trị X. Đó là nguyên lý hoán cải số
mạng mà tôi vừa trình bày. Đời người thực ra đã ghi khắc trên tinh tú
nhưng các tinh tú khi sáng khi mờ, và sự mờ tỏ do chính ta quyết định.
Khi ta có các hành vi xấu xa, nó tạo ra những động lực xấu và sẽ thu hút
các điều xấu ghi khắc trên tinh tú, phản chiếu xuống mau lẹ hơn. Dĩ
nhiên hậu quả là không thể lường. Trái lại, nếu ta ý thức điều này, phát
tâm làm việc hữu ích thì sẽ tự nhiên phát sinh các động lực tốt đánh
bật các ảnh hưởng xấu sang một bên. Nhờ nghiên cứu chiêm tinh học một
cách đúng đắn, khoa học, con người sẽ hiểu biết mệnh trời, biết tin
tưởng ở mình và sống cuộc đời thoải mái, không bi quan, không lạc quan,
an vui tự tại.
- Như thế người đi trên đường Đạo, sẽ gặp gì khi đã có nghiệp quả xấu?
- Nghiệp quả xấu ví như một án treo, bất động, nhưng không ai có thể
tránh được nó. Đối với những người đã vào cửa Đạo, đã hiểu biết thì họ
lại cầu xin được trả quả cho lẹ. Tuy họ không gây các nhân xấu nữa,
nhưng họ đủ can đảm để chịu đựng nghiệp quả. Có thế họ mới rút ngắn thời
gian trong sinh tử luân hồi. Hiểu biết mệnh trời để sống thoải mái
chính là mục đích của khoa chiêm tinh chân chính.
Babu im lặng suy nghĩ. Sau cùng, ông bước đến một cái tủ lớn rồi mang
ra một cái hộp nạm vàng rất đẹp. Trong hộp chứa một quyển sách cổ viết
trên giấy papyrus, ông long trọng tuyên bố:
- Đây chính là một phần của bộ Brahma Chinta mà tôi sưu tầm được. Các
ông nên biết huyền môn có hai phần - công truyền (exoteric) và bí truyền
(esoteric). Loại bí truyền chỉ được dạy cho các đệ tử đã bước vào cửa
Đạo, đã được tuyển chọn rất kỹ. Hiền triết Bhrigu chỉ truyền cho 4 đệ tử
bộ sách này. Tôi tiếc rằng phần nhỏ tôi sưu tầm được này còn nhiều
thiếu sót và rất khó hiểu, mất hơn 20 năm nghiên cứu mà tôi chỉ hiểu
chút ít thôi. Gặp gỡ các bạn hôm nay là một nhân duyên hiếm có, tôi xin
dịch vài trang để làm quà cho các bạn:
“Vạn vật trong vũ trụ dù ở cõi vô hình hay hữu hình đều được xếp hạng
và phân loại theo quy mô của số 7. Tất cả mọi hình thức sinh hoạt trong
dãy hành tinh hiện tại đều thuộc một trong 7 cung. Mỗi cung có 7 phân bộ
hay 49 nhóm. Toàn thể Thái dương hệ của chúng ta đều là sự biểu lộ của
Thượng đế, mỗi phần tử trong đó đều là một phần của ngài. Ngoài ra có 7
vị tinh quân, mỗi vị kiểm soát một cung. Thật ra các vị này chỉ là những
trung tâm thần lực, những con đường để thần lực Thượng đế ban ra. Con
người có ba thể chính là thể xác, thể vía và thể trí tương ứng với ba
cõi giới Hạ giới, Trung giới và Thượng giới. Thượng đế cũng thế, tất cả
vật chất trong Hạ giới hợp thành thể xác của ngài. Tất cả vật chất cõi
Trung giới hợp thành vía của ngài, và tất cả vật chất cõi Thượng giới
hợp thành thể trí của ngài. Tóm lại, tất cả đều là thành phần của Thượng
đế, từ hạt bụi đến các dãy thiên hà. Mọi nguyên tử vật chất cấu tạo nên
chúng ta đều là một phần của Thượng đế xuyên qua 7 cung – khi qua đây
nó bị thay đổi ít nhiều, tùy ảnh hưởng các cung. Khoa chiêm tinh có thể
phân biệt người nào chịu ảnh hưởng cung nào tùy số lượng nguyên tử cấu
tạo xuất phát từ cung liên hệ”.
Babu nhìn mọi người. Thấy họ có vẻ ngơ ngác, ông mỉm cười giải thích:
- Đề tài này rất khó hiểu, thôi để tôi giải thích rộng ra vậy. Nói theo
danh từ Thiên Chúa giáo thì 7 vị tinh quân này đã xuất hiện trong linh
ảnh (vision) của Thánh Jean. Sách Khải huyền 4.5 nói rõ, “có 7 ngọn đèn
thắp trước ngài, đó là 7 vị đại thiên thần của Chúa Trời”. Lúc khởi
thủy, mọi người chúng ta đều là thành phần của Thượng đế, nghĩa là cùng
bắt nguồn từ một nơi. Sau đó, chúng ta tách rời ra, xuyên qua 7 con
đường vận hà này. Theo sự hiểu biết của tôi, thì 7 con đường biểu lộ 7
đức tính của Thượng đế, qua 7 vị tinh quân. Vị thứ nhất là thiên thần
Michael (sức mạnh), liên hệ đến Hỏa tinh. Vị thứ hai là Gabriel (toàn
tri) liên quan đến Thủy tinh. Vị thứ ba là Raphael (quyền năng) liên
quan đến Thái dương. Vị thứ tư là Uriel (ánh sáng) liên quan đến Mặt
trăng. Vị thứ năm là Zakiel (hảo ý) liên quan đến Mộc tinh, còn hai vị
kia là Jophiel và Samuel thì tôi không biết rõ hành tinh liên hệ. Khoa
học thực nghiệm tin rằng các hành tinh đều là sự kết hợp ngẫu nhiên của
vật chất. Nếu là ngẫu nhiên tại sao chúng nằm ở các vị trí nhất định
trong vũ trụ, và di chuyển theo một quỹ đạo cố định? Mọi vật dường như
tuân theo một định luật thiên nhiên, nhưng đằng sau định luật đó luôn
luôn có một sức mạnh thiêng liêng cai quản. Tôi cố gắng dùng tên các vị
thiên thần và danh từ Thiên Chúa giáo để giải thích cho các ông. Điều
này có thể được diễn tả khác đi tùy theo quan niệm tôn giáo, văn hóa;
nhưng sự thật vẫn là một. Muốn hiểu khoa chiêm tinh phải đi ngược về
nguồn cội. Con người từ một chốn nguyên thủy ví như nước cùng một nguồn
chảy theo bảy dòng suối khác nhau để ra biển. Mỗi dòng suối sẽ mang một
tính chất khác nhau, do đó nước trong suối cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều.
Loài người có thể phân biệt ra 7 đức tính rõ rệt tùy theo con đường vận
hà mà họ trải qua. Chiêm tinh nghiên cứu con người và sự ảnh hưởng của
hành tinh đến các tính nết nhất định. Cũng như khoa Sinh lý học phân
biệt con người qua tính chất nồng nhiệt, lãnh đạm, bạch huyết chất hay
đa huyết chất. Thực ra đó chỉ là các phương pháp khác nhau để trình bày
tính chất con người. Dĩ nhiên không dễ gì tìm ra cung của mỗi người vì
họ đã đi sâu trong luân hồi sinh tử, tạo các nghiệp quả phức tạp, và
những nguyên nhân này chế ngự, ảnh hưởng đến tính tình họ rất nhiều. Chỉ
với sự khai mở các giác quan như Thần nhãn hay có một kinh nghiệm sâu
xa về huyền môn, ta mới có thể biết rõ họ thuộc cung nào. Nếu một người
biết rõ cung của mình và tiếp tục trau dồi bản tính sẵn có, thì anh ta
sẽ tiến bộ rất nhanh, vì khí cụ hữu hiệu nhất là phương pháp thuộc về
cung liên hệ. Thí dụ như người có khiếu về âm nhạc lại cứ học toán.
Không phải anh ta sẽ không tiến bộ gì, nhưng nếu đi về âm nhạc anh ta sẽ
tiến nhanh hơn vì hợp với khả năng hơn. Việc hiểu biết mình là ai, có
những khả năng tiềm ẩn nào sẽ giúp ta định hướng đi cho chính xác. Đó
mới là mục đích của khoa chiêm tinh. Đa số con người hành động không ý
thức, chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh, nên luôn bất mãn, không thoải mái.
Họ tự đóng kịch với chính mình, hoặc sống theo một lề lối khuôn khổ
không thích hợp. Trong Kinh Thánh có câu: “Nếu các ngươi không hồn nhiên
như trẻ con, các ngươi không thể vào nước thiên đàng”. Điều này khuyên
ta nên sống thật với chính mình. Chiêm tinh học có thể giúp ta biết ta
là ai, thích hợp với những công việc gì. Nghiên cứu chiêm tinh như thế
mới gọi là đứng đắn, chứ không phải chỉ xem quá khứ, vị lai, may rủi.
- Làm sao con người có thể biết họ thích hợp với cung nào?
- Một nhà chiêm tinh giỏi có thể lấy lá số tử vi để xem cá nhân đó liên
hệ với cung nào, điều này đòi hỏi rất nhiều thời giờ, kinh nghiệm. Một
phương pháp khác là hãy nhìn vào hành động của mỗi người. Người thuộc
cung 1 sẽ đạt đến mục đích bằng sức mạnh ý chí. Người thuộc cung 2, phân
tích kỹ lưỡng vấn đề để lựa chọn phương pháp nào hữu hiệu nhất. Người
thuộc cung 3 nghiên cứu rất kỹ về thời gian, giờ khắc thuận lợi nhất,
v.v. Một thí dụ khác như trong việc chữa bệnh, người cung 2 sẽ tìm hiểu
nguyên nhân và phương pháp nào thích hợp nhất để chữa bệnh, trong khi
người ở cung 3 sẽ nghiên cứu thời gian nào thuận lợi để chữa. Người ở
cung 6 sẽ tìm cách chữa bệnh bằng đức tin. Người thuộc cung 7 sẽ chữa
bằng các nghi lễ, cúng tế, v.v. Tuy nhiên, cách tốt hơn hết là tự mình
xét lấy mình. Hãy dẹp bỏ những điều mình vẫn khoác lên bản ngã như danh
vọng, địa vị, ham muốn. Hãy thành thật với chính mình thì ta có thể xem
được mình thuộc về cung nào. Nếu ta là người có ý chí mạnh mẽ, cương
quyết làm việc trong tinh thần khoa học thì có lẽ ta ở cung 1. Nếu là
người khôn khéo, thích lý luận và làm việc một cách hiệu quả thì có lẽ ở
cung 2. Nếu là người nhạy cảm, thích hoạt động xã hội, từ thiện thì có
lẽ ta thuộc cung 5. Nếu là người có đức tin mạnh mẽ, cẩn thận, có thể ta
thuộc cung 7, v.v.
Đề tài các cung rất khó giải thích trong một thời gian ngắn. Tôi chỉ có
thể nói vắn tắt thôi. Cái vật chất sơ khai nguyên thủy bắt đầu tiến hóa
qua 7 con đường vận hà hay 7 đức tính quan trọng. Chỉ khi nào một con
người phát triển toàn vẹn cả 7 đức tính này thì người ấy mới trở nên
toàn thiện. Dĩ nhiên chúng ta đều bất toàn, dù mỗi cá nhân đã nảy nở các
đức tính cần thiết căn bản. Người Âu Tây đã khai mở rất nhiều khả năng
suy luận, khoa học, nhưng lại thiếu khả năng sùng tín, bác ái. Vì lý trí
nảy nở nhiều hơn tình cảm nên họ có vẻ thiếu thiện cảm, lạnh lùng,
thích chống báng thay vì dung hòa. Trong khi đó, người châu Á phát triển
mạnh mẽ về sự sùng tín, bác ái nhưng thiếu khả năng suy luận, để tình
cảm chi phối nên họ có vẻ chịu đựng, nhượng bộ, khoan dung, dễ dãi. Cả
hai đều không quân bình tuyệt đối, nên trong tương lai sẽ có các biến
chuyển mạnh, xáo trộn để nhân loại có dịp học hỏi, hòa hợp với nhau.
Babu im lặng suy nghĩ một lúc rồi trầm giọng:
- Trong cuộc đời nghiên cứu sách vở bí truyền của các tôn giáo, tôi
không hề thấy có sự khác biệt giữa các giáo lý, nếu không nói là giống
hệt nhau. Tiếc thay, con người chỉ thích đi tìm sự khác biệt để chỉ
trích, phê bình và càng ngày càng đi xa đến chỗ vô minh cùng cực.
- Nhưng các tôn giáo có khác biệt nhau chứ?
Babu nhẹ nhàng:
- Này các bạn, mỗi quốc gia có phong tục tập quán riêng biệt. Mỗi thời
buổi đều có các thay đổi, giá trị khác nhau. Do đó, một chân lý cũng có
thể được giảng dạy bằng các phương pháp khác nhau. Phương pháp, ngôn ngữ
có thể khác, nhưng chân lý vẫn là một; cũng như Thượng đế có 7 con
đường vận hà khác nhau qua bảy cung. Nguyên tử mỗi cung có các rung động
khác nhau, có màu sắc khác nhau, tính chất khác nhau, nhưng nó đều là
nguyên tử xuất phát từ Thượng đế. Nếu bạn thay đổi áo mặc khác nhau thì
bạn đâu có thay đổi, chiếc áo có thể khác nhưng người mặc áo vẫn chỉ là
một. Nếu các ông đi ngược về cội nguồn thì các ông sẽ hiểu sự thay đổi
của từng thời kỳ qua sự ảnh hưởng của các vì tinh tú.
Giáo sư Allen thắc mắc:
- Xin ông giải thích thêm về điều này.
Babu trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Trong 7 vị tinh quân có những biến đổi diễn ra từng thời kỳ giống như
sự tuần hoàn của hơi thở trong bộ máy hô hấp, hay sự vận động của quả
tim. Các sự biến đổi này diễn ra vô cùng phức tạp, dưới thiên hình vạn
trạng. Vì lẽ thể vía con người được cấu tạo cùng một nguyên tử với thể
vía các vị tinh quân, nên khi vị tinh quân thay đổi, tự nhiên mọi người
trên thế gian cũng ít nhiều ảnh hưởng theo. Nói một cách khác, khi vị
tinh quân cai quản một cung thay đổi thì những người đã đi qua cung đó,
nguyên tử cấu tạo có chứa đựng nhiều tỷ lệ của cung đó sẽ thay đổi theo.
Trong lịch trình tiến hóa, đã có những sự thay đổi trong đầu óc loài
người, từng thời kỳ và do đó, văn minh nhân loại cũng đổi thay. Theo sự
nghiên cứu của tôi thì mỗi chu kỳ kéo dài khoảng 100 năm, nhưng cứ 25
năm cuối lại có các biến chuyển gây ảnh hưởng cho chu kỳ kế tiếp.
- Như vậy thì sự biến chuyển kỳ này sẽ bắt đầu vào khoảng 1975 cho đến năm 2000 và ảnh hưởng đến thế kỷ 21?
Babu gật đầu:
- Thật ra chu kỳ không hoàn toàn trùng hợp từng năm, từng tháng, vì
niên lịch thông thường không chính xác. Khoa chiêm tinh sử dụng một thứ
lịch khác theo sự vận chuyển của các tinh tú. Tuy nhiên, để giản dị hóa
vấn đề này ta có thể nói rằng cứ 25 năm cuối của mỗi thế kỷ là buổi giao
thời có nhiều sự thay đổi mãnh liệt.
Giáo sư Mortimer buột miệng:
- Nhưng đã có bằng chứng nào rằng cuối thế kỷ này sẽ có các thay đổi lớn?
Babu mỉm cười nhìn tất cả mọi người:
- Các ông đều là người Âu, tôi xin dẫn chứng bằng lịch sử châu Âu cho
dễ hiểu. Các ông có thể coi nó là sự trùng hợp ngẫu nhiên cũng được. Năm
1275, Roger Bacon phát động phong trào Phục hưng văn hóa, rồi suốt 100
năm sau, toàn thể châu Âu đều thay đổi. Năm 1375, Chirstian Rosenkreuz
phổ biến nền văn hóa này khắp các tầng lớp dân chúng, đưa châu Âu thoát
khỏi thời kỳ Trung cổ hắc ám. Năm 1275 và 1375 chả là 25 năm chót của
thế kỷ 13 và 14 hay sao?
Giáo sư Mortimer, một nhà bác học về cổ ngữ và lịch sử châu Âu suy nghĩ:
- Quả thế, phong trào phổ thông văn hóa bằng đường lối phục hưng đã cứu
nguy cho sự suy đồi của châu Âu, nhưng đó chỉ là hai trường hợp. Tôi
thiết nghĩ muốn kết luận ta cần nhiều dữ kiện rõ ràng hơn.
Babu mỉm một nụ cười bí mật và xác định:
- Thế thì ông nghĩ sao về việc phát minh ra máy in, kỹ thuật ấn loát
vào năm 1473? Nhờ thế tư tưởng các triết gia, giáo sĩ mới phổ biến ra
khắp quần chúng, nâng cao dân trí châu Âu? Ông nghĩ sao về Francis Bacon
và cao trào nghiên cứu khoa học năm 1578, sử dụng Anh ngữ thay vì tiếng
Latin để phổ biến kiến thức khoa học. Có phải những việc này đã đem
khoa học vào xã hội để cải thiện cuộc sống hay không? Những việc này xảy
ra vào 25 năm cuối của thế kỷ 15 và 16. Phải phục hưng văn hóa, đưa
châu Âu thoát khỏi các thành kiến bảo thủ đã, rồi cải cách, phát triển
khoa học để mọi người biết suy luận, sau đó mới thay đổi xã hội được
chứ. Văn hóa đi trước, phổ biến tư tưởng để dọn đường cho các thay đổi
chính trị, xã hội về sau. Năm 1675, các hội kín bắt đầu mọc lên, kêu gọi
san bằng giai cấp, dẹp tan bất công xã hội gây nên bởi chế độ bảo
hoàng. Năm l789, cuộc cách mạng Pháp đã bùng nổ, và thay đổi hẳn lịch sử
châu Âu. Hai biến cố này đều xảy ra trong vòng 25 năm cuối của thế kỷ
17 và 18. Từ đó đến nay chắc các ông đã thấy?
Giáo sư Mortimer toát mồ hôi trán. Lịch sử châu Âu đối với ông nào có
xa lạ gì, nhưng sự giải thích của Babu đã làm ông bừng tỉnh.
Toàn thể phái đoàn đều bàng hoàng, khâm phục Babu. Trong một buổi
chiều, nhà chiêm tinh xứ Ấn đã hùng biện, dẫn chứng về toán học, sinh
vật học, triết học, tôn giáo và cả lịch sử châu Âu như một học giả uyên
bác nhất. Kiến thức của ông đã chinh phục tất cả mọi người.
Giáo sư Mortimer run giọng:
- Vậy thì theo ông việc gì sẽ xảy ra cho thế kỷ 20 này?
Babu im lặng suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Năm 1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát triển khoa
học văn minh cơ giới cùng thuyết tiến hoá của Darwin, và phong trào
Thiên Chúa giáo tự do. Từ đây bắt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần
và vật chất. Có hai mãnh lực rất mạnh phát xuất từ hai bầu tinh tú đối
cực, gây nên phong trào Duy tâm và Duy vật. Thế kỷ 20 bắt đầu với sự
phát triển cực thịnh của thuyết Duy vật. Con người sẽ bị thúc đẩy vào
các sự kiện vật chất, họ sẽ gặp các thử thách mà nhu cầu của bao tử,
khoái cảm xác thân tranh đấu với nhu cầu của tâm linh một cách mãnh
liệt. Đến khoảng 25 năm cuối, từ 1975 trở đi thì phong trào Duy tâm sẽ
phát triển mạnh mẽ và được phổ biến sâu rộng để thúc đẩy sự tiến hóa tâm
linh. Cuối thế kỷ 20, phong trào Duy vật sẽ sụp đổ, hiện tượng nghiên
cứu các giáo lý bí truyền sẽ bắt đầu. Này các bạn, các bạn đều là những
người tiên phong. Trước khi một sự phổ thông Bí giáo được thực hiện,
phải có những hạt giống gieo sẵn và nẩy mầm. Đó là lý do các bạn được
thúc đẩy để nghiên cứu các hiện tượng huyền bí phương Đông. Tôi không
thể tiết lộ thêm điều gì, nhưng qua lá số tử vi của Oliver, tôi quả
quyết những điều tiên đoán đều sẽ thành sự thật. Chắc chắn trong 25 năm
cuối của thế kỷ này, sẽ có nhiều thay đổi và có những cố gắng giúp cho
sự tiến bộ của nhân loại, giai đoạn này rất quan trọng. Có hai loại
người trên thế gian: một loại đã thấy ánh sáng rực rỡ nơi cuối chân trời
và định hướng để tiến tới đó. Dĩ nhiên, họ sẽ phải chiến đấu cam go với
các cám dỗ, các hoàn cảnh bất lợi xảy ra chung quanh. Nhưng ở họ, hy
vọng luôn luôn sáng rỡ. Hạng thứ hai, không cảm nhận được các tư tưởng
thanh cao, không tin tưởng những điều cao thượng. Họ là những người lạc
lõng, đáng thương, vì họ sẽ phải học các bài học hết sức đau khổ cho đến
khi họ hiểu biết và quay đầu về phía ánh sáng. Điều này đã và đang xảy
ra.
- Chuyện gì sẽ xảy ra cho những người không hiểu biết này?
Babu bật cười:
- Các ông nghĩ rằng Thượng đế sẽ trừng phạt họ ư? Không đâu, họ sẽ phải
tự học lấy những bài học trong lầm lỗi, trong đau khổ. Thí dụ như người
muốn đi từ quê lên tỉnh, họ có thể đi theo các con đường đã trải nhựa
sẵn sàng, theo bản đồ chỉ dẫn. Nhưng có người cứ khăng khăng đi theo ý
mình bất tuân theo luật lệ, đường dọn sẵn không đi, bản đồ có sẵn không
thèm nhìn. Những người ấy sẽ đi vào rừng, dẫm lên gai góc, đau đớn, lạc
lối lung tung. Sau đó, họ mới ý thức được sự ngu xuẩn của mình. Đời là
một bài học vô cùng quý giá mà ai cũng phải học. Cõi đời đầy những vô
thường, khi thế này lúc thế khác chứ đâu êm xuôi bằng phẳng.
Babu ngưng nói đưa mắt nhìn về sông Hằng. Bên kia bờ sông là một câu
lạc bộ với những ánh đèn màu cùng tiếng nhạc dập dìu. Ông thở dài:
- Đó là nơi hội họp của một hội đồng thương mại. Hội này quy tụ toàn
các thương gia, các bậc thượng lưu, trí thức, giàu có bậc nhất thành phố
này. Tuần nào họ cũng hội họp ăn uống. Đa số đều đã ngoài 60 mà vẫn còn
ham vui. Cơ thể họ đã suy nhược, nhưng lòng hưởng thụ vật chất còn mãnh
liệt. Họ tụ tập nhau để nói chuyện mưa gió, thời tiết, thú vui đời
người. Không ai ý thức được rằng chỉ ít lâu nữa, ai cũng phải từ giã cõi
trần. Nghe họ vui đùa, tưởng như họ có thể lột da như giống rắn để sống
mãi mãi như thế.
Babu nhìn lên bầu trời đầy sao, trầm ngâm:
- Mọi vật trong vũ trụ đều quân bình tuyệt đối, không dư, không thiếu,
từ hạt bụi bé nhỏ đến những dãy thiên hà vĩ đại. Đời người quá ngắn, và
luôn bị lôi cuốn vào sinh hoạt quay cuồng. Đâu mấy ai ý thức được sự
phung phí hôm nay dọn đường cho sự đau khổ ngày mai. Tất cả chỉ là những
ảo ảnh chập chờn, thế mà người ta cứ coi như thật. Nếu biết thức tỉnh
quan sát, ta có thể học hỏi biết bao điều hay. Tiếc rằng khi đắc thời
người ta quên đi quá khứ rất nhanh. Chỉ trong đau khổ, nhục nhã ê chề
mới chịu học. Có thể đó cũng là lý do luôn luôn có các biến động vô
thường, thúc giục con người học hỏi.
- Ông nghĩ rằng con người sẽ học hỏi trong đau khổ?
Babu thở dài:
- Đúng thế, chúng ta có tính hay quên, nên cứ phải học đi học lại cái
bài học khổ. Chỉ khi bị khổ sở, bị đàn áp, tự do bị chà đạp, con người
mới quay về với niềm hy vọng cuối cùng là đức tin. Khi sung sướng ít ai
nghĩ đến việc tu thân cầu giải thoát. Khi cơ thể bệnh hoạn, ta mới thấy
khỏe mạnh là hạnh phúc. Khi bị tù đày, ta mới thấy giá trị của tự do.
Tiếc rằng khi khỏi bệnh, ta không ý thức nguyên nhân đã gây nên bệnh đó,
mà lại tiếp tục một đời sống như trước; do đó, ta cứ bị bệnh hoài.
- Nhưng con người cũng học hỏi rất nhiều, và đã có tiến bộ lớn lao.
Babu ngắt lời:
- Các ông gọi như thế nào là tiến bộ? Trên phương diện vật chất, con
người ta đã tiến bộ chút ít so với những thế kỷ trước. Nhưng phương diện
tinh thần vẫn nghèo nàn như xưa, chả tiến được chút nào, bằng cớ là họ
vẫn tiếp tục các lỗi lầm quá khứ.
- Ông muốn nói đến chiến tranh ư?
Babu im lặng nhìn lên bầu trời đầy tinh tú, ngẫm nghĩ một điều gì.
Toàn thể mọi người im lặng chờ đợi. Sau cùng, giáo sư Allen lên tiếng:
- Theo ông, thì hòa bình có thể thực hiện một ngày gần đây không?
Babu mỉm cười trả lời:
- Các ông nghĩ rằng với khả năng bé nhỏ của tôi mà có thể biết hết được
ư? Từ khi con người có mặt trên trái đất này đã có hết cuộc chiến này
đến cuộc chiến khác. Chiến tranh có bao giờ chấm dứt được? Thực ra chiến
tranh chỉ là sự biểu lộ trạng thái bên trong chúng ta, là sự phóng đại
các động tác hàng ngày của chúng ta. Sở dĩ mỗi ngày nó một trầm trọng
hơn là do kết quả các hoạt động kỹ nghệ và óc sáng tạo của con người.
Chiến tranh không thể chấm dứt nếu các nguyên nhân gây nên cuộc chiến
vẫn còn. Nếu có một cây cổ thụ thật lớn và ta muốn tiêu diệt nó. Ta
không thể leo lên vặt hết lá cây được, vặt lá này nó lại mọc lá khác
phải không các bạn? Cách duy nhất là đốn tận gốc rễ. Nguyên nhân chiến
tranh bắt nguồn từ các tham vọng, giận dữ, oán hận, đầu óc quốc gia, bộ
lạc, tinh thần phe phái, đố kỵ, ganh ghét, v.v. Tận diệt được các thói
xấu này là chấm dứt chiến tranh. Phương pháp duy nhất là làm một cuộc
cách mạng trong tâm hồn. Chỉ khi nào loài người ý thức điều này và thay
đổi quan niệm sống, xoá bỏ lòng thù hận thì họ sẽ thấy bình an. Tiếc
rằng ai cũng chỉ nhìn thấy sự sai quấy nơi người khác nên mới có tình
trạng ngày nay. Hòa bình và thiện chí cần đi đôi với nhau, nên không ai
có thể thực hiện hòa bình khi lòng còn đầy oán thù, ghen ghét, muốn bóc
lột kẻ khác để mưu lợi cho cá nhân mình hay phe phái mình. Tất cả các
hội nghị, các mưu tính để mang lại hòa bình cho nhân loại đều thất bại
vì con người không chịu thực hiện hòa bình ở chính mình.
Babu mỉm cười nhìn tất cả mọi người một lúc, rồi trầm giọng:
- Các ông đều biết Alexander Đại đế, người đã chinh phục thế giới.
Trong việc xây dựng hòa bình cho Hy Lạp, ông đã càn quét, tiêu diệt tất
cả những nước láng giềng có thể đe dọa xứ sở của ông. Rồi cứ thắng xong
trận này lại phải lo đến trận khác, và cuộc chiến tranh để mang lại hòa
bình cứ kéo dài. Alexander là một người thông minh theo học với hiền
triết Aristotle. Khi lên ngôi hoàng đế, ông đã tâm sự với thầy: “Con sẽ
chiến thắng Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ”. Aristotle hỏi: “Rồi sao nữa?”.
Alexander suy nghĩ: “Sau đó, con có thể ngủ một cách bình an”. Aristotle
mỉm cười, “Con hỡi, tại sao con không ngủ bình an ngay đêm nay có hơn
không?”.
Babu kết luận:
- Tôi nghĩ con người cần đặt cho mình một câu hỏi tương tự. Hãy quan
sát lòng mình một cách thành thật xem mình muốn gì? Chúng ta muốn bình
an hay kích động? Phải chăng chúng ta đều náo nức muốn cái gì? Mỗi buổi
sáng, chúng ta vội vã cầm lấy tờ báo để tìm các tin tức sôi nổi nhất.
Nếu không có tin gì về chiến tranh, thiên tai, xáo trộn, khó khăn kinh
tế… thì chúng ta vất tờ báo xuống đất và than rằng chả có gì đáng xem.
Có phải thế không? Chúng ta muốn sống yên ổn, không thích xáo trộn,
nhưng rất thích thú nghe nói về các sự xáo trộn của kẻ khác. Chúng ta
dành nhiều giờ để bàn cãi sôi nổi về người này, người nọ, chê bai ông
này, giiễu cợt bà kia. Phải chăng chúng ta vẫn làm thế? Có bao giờ chúng
ta đặt câu hỏi, tại sao chúng ta lại làm thế không? Lòng ta còn ham
tiền bạc, danh vọng, địa vị, sức khỏe, và chỉ cầu bình an cho chính mình
thôi, nên chẳng bao giờ thỏa mãn. Nếu ai có hỏi thì ta cũng sẽ chối
quanh như Alexander Đại đế chỉ xin một giấc ngủ bình an mà thôi. Giấc
ngủ bình an nào có khó, nào xa xôi diệu vợi, tốn công nhọc sức mới có.
Làm sao ta có thể lao đầu vào vật chất phù du, xây dựng danh vọng địa
vị, thỏa mãn cái phàm ngã hữu hình hữu hoại đồng thời tìm sự bình an,
yên tĩnh? Chính các điều trên đã phá vỡ sự yên tĩnh sung mãn của nội tâm
ta. Phiền não là do chính ta tạo nên, chứ đâu phải hoàn cảnh phải không
các bạn? Ngày hôm nay chúng ta đã nói chuyện rất lâu rồi. Các bạn sẽ
còn trải qua một hành trình dài, gặp gỡ nhiều bậc danh sư, hiền triết.
Tôi chúc các bạn tìm được niềm an tĩnh của tâm hồn.
Babu mỉm cười, giơ tay tiễn khách. Vầng trăng đã lên cao, lấp loáng phản chiếu trên sông Hằng.
Nhận xét
Đăng nhận xét